Suy Niệm Chúa Nhật XV Thường Niên Năm C
-
“TÔI LÀ NGƯỜI THÂN CẬN CỦA AI?”
-
“NHỮNG NGƯỜI TỔN THƯƠNG BÊN VỆ ĐƯỜNG CUỘC ĐỜI?”
-
Hãy làm như người Samaritanô
-
Đức ái đích thức
-
Thế giới đang rất cần tình anh em
-
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN NĂM C
Chúa Nhật XV Thường Niên - Năm C
“TÔI LÀ NGƯỜI THÂN CẬN CỦA AI?”
Bài giảng lễ Thiếu Nhi
(Lc 10, 25-37)
Các con thiếu nhi thân mến,
Có bao giờ con thấy một người bị bỏ rơi chưa?
Các con có bao giờ thấy người bị mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường ? Hay có người tàn tật đi bán vé số ? Hay người bị tai nạn giao thông nhưng không có ai giúp đỡ ? Hoặc người mù muốn băng qua đường nhưng không có ai dắt họ qua đường ? Ai cũng vội vã bước qua vì họ có nhiều lý do không muốn giúp đỡ…
Hay trong gia đình của mình cũng có người bị bỏ rơi đó các con:
Người bị bỏ rơi, có khi là ông bà đã lớn tuổi, ngồi lặng yên bên cửa sổ, chờ con cháu đến hỏi thăm.
Người bị bỏ rơi, có khi là người mẹ, với muôn công ngàn việc… vất vả làm bếp nấu ăn, rồi tay mẹ bưng mâm cơm nóng dọn cho các con, nhưng chẳng ai biết phụ giúp và cảm ơn?
Người bị bỏ rơi, có khi là người cha các con, suốt ngày làm việc kiếm tiền, về đến nhà nhưng các con không ai hỏi thăm xem cha có mệt không? Hoặc đấm lưng cho cha, lấy nước cho cha mình uống sau một ngày vất vả làm việc ?
Người bị bỏ rơi, có khi là một bạn trong lớp, hay ngồi một mình ở góc bàn, vì không ai muốn chơi cùng, vì bạn ấy không học giỏi, nhà nghèo, hoặc không được sáng láng như các con.
Và có khi người ấy là chính các con, nhiều lúc mình cảm thấy buồn bã vì không ai thật sự hiểu mình, hay cần đến mình…
Các con thân mến,
Có những người bị thương không phải vì chảy máu nơi tay chân mà là chảy máu trong trái tim. Họ nằm bên lề cuộc sống như người bị thương trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu, với đôi mắt tràn đầy yêu thương, đã kể cho chúng ta một câu chuyện để chỉ cho ta thấy điều thật sự quan trọng: Yêu người thân cận không phải bằng lời nói, mà bằng đôi tay, bằng bước chân, bằng trái tim.
Một người thông luật đến gặp Chúa Giêsu và hỏi: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sống đời đời?” Chúa không trả lời ngay. Ngài hỏi lại: “Trong Kinh Thánh viết gì?” Người ấy trả lời rằng phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu người thân cận như chính mình. Chúa Giêsu gật đầu và bảo: “Hãy làm như vậy là sẽ được sống.”
Nhưng người ấy lại hỏi: “Vậy ai là người thân cận của tôi?” Và thế là Chúa bắt đầu kể một câu chuyện nhẹ nhàng, đơn sơ, nhưng khiến cả thế giới phải lặng đi mà suy nghĩ.
Có một người đi từ Giêrusalem đến Giêricô. Trên con đường ấy, anh ta bị bọn cướp chặn đường đánh đập. Chúng lấy hết đồ đạc, rồi bỏ đi, để mặc anh nằm bên vệ đường, nửa sống nửa chết. Anh không thể đứng dậy. Anh không thể gọi cứu giúp. Anh chỉ còn biết nằm đó, giữa nóng nực, bụi đường, đau đớn và cô đơn.
Một thầy Tư tế đi ngang qua. Ông là người quen đọc Kinh Thánh, là người tế lễ trong đền thờ và quen nói về tình yêu thương. Nhưng khi ông thấy người bị thương, ông đi tiếp, không dừng lại. Có thể ông sợ dơ, sợ bị liên luỵ, sợ đến muộn công việc. Dù vì lý do gì, ông đã không dừng lại.
Rồi một thầy Lêvi đi tới. Ông cũng là người phục vụ trong Đền Thờ, cũng hiểu biết nhiều về Lề Luật và điều thiêng liêng. Nhưng khi thấy người bị thương, ông cũng lặng lẽ tránh sang một bên.
Cả hai người đều đi tiếp. Họ thấy, nhưng “không nhìn”. Họ bước đi, nhưng không dừng lại. Và thế là người bị thương vẫn nằm đó, máu tiếp tục chảy, ánh mắt tiếp tục tìm một hy vọng.
Cuối cùng, một người Samaritanô đi qua. Người này không quen biết nạn nhân. Ông thậm chí còn thuộc một dân tộc bị coi là không cùng niềm tin với người Do Thái. Người Do Thái ghét họ đến nỗi không thèm đi ngang qua đất đai của họ. Nhưng… khi ông thấy người bị thương, ông động lòng thương. Ông dừng lại. Ông bước tới, cúi xuống, băng bó các vết thương, đặt người ấy lên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ, trả tiền cho người trọ chăm sóc và hứa sẽ quay lại.
Ông không hỏi: “Anh là ai? Là người Do Thái hay người Samari ? Anh có cùng giai cấp, địa vị như tôi không? Anh có cùng niềm tin với tôi không ? Anh có xứng đáng được giúp không?”
Ông chỉ thấy một con người đang đau đớn và thế là ông hành động giúp đỡ.
Các con thân mến,
Chúa Giêsu không kể câu chuyện ấy để chúng ta chỉ khen người Samaritanô. Ngài kể để hỏi mỗi người chúng ta: “Con đã là người thân cận của ai chưa?”
Người thân cận không chỉ là người thân thuộc trong gia đình, là người chúng ta quen biết, cũng không chỉ là người hợp với chúng ta, là người sống gần nhà, hay học cùng lớp hoặc là người hay cho chúng ta đồ đạc... Người thân cận là người mà các con dám đến gần, dám yêu thương, dám giúp đỡ. Họ có thể là người không thích chúng ta, là người tội lỗi, là người có nhiều tiêu cực, là người gây phiền toái cho người khác…
Người thân cận cũng có thể là:
Có thể là em nhỏ các con từng giận, nhưng hôm nay em bị ngã, con nói: “em có bị đau không?”
Có thể là mẹ chúng ta đang buồn, mẹ chỉ cần một vòng tay ôm và con có thể nói: “con yêu mẹ”
Có thể là người bạn không ai muốn chơi, đang chờ con mời một câu: “Bạn chơi với mình nha.”
Có thể là ông bà đang đau yếu, đang cần con hỏi thăm một lời.
Có thể là người ăn xin đến xin con, con từng lảng tránh.
Có thể là người mà con không thích, vì họ hay bắt nạt con, họ không thương con…
Các con có sẵn sàng trở nên người thân cận của họ không?
Cha kể các con nghe một câu chuyện cảm động về thánh Camêlô nhé:
Ngày xưa có một người tên là Camêlô. Khi còn trẻ, ngài là một người lính mạnh mẽ, nhưng sau một thời gian, ngài bị thương nặng nơi chân. Vết thương ấy không bao giờ lành, khiến ngài không thể tiếp tục làm lính và rơi vào cảnh nghèo khổ, lang thang, từng phải xin ăn ngoài đường như một người vô gia cư. Ngài sống bên lề xã hội, không ai để ý. Có lần, ngài được nhận vào làm việc ở bệnh viện. Ở đó, ngài thấy nhiều người bệnh đau đớn, nằm la liệt, không ai chăm sóc, không ai lau nước mắt, không ai cho ăn uống.
Khi nhìn những người bệnh ấy, thánh Camêlô cảm thấy tim mình đau nhói. Và chính lúc đó, ngài “gặp được Chúa Giêsu”, không phải bằng mắt thường, mà bằng đôi mắt của trái tim. Ngài nhận ra: “Chúa Giêsu đang hiện diện nơi những người này. Chính Chúa đang bị đau, bị bỏ rơi, bị khát khao một bàn tay giúp đỡ.” Từ ngày ấy, thánh Camêlô thay đổi. Ngài quyết định sống đời mình để chăm sóc những người bệnh tật, đau khổ. Thánh nhân băng bó vết thương, đút ăn, lau trán cho bệnh nhân hấp hối, và nói những lời an ủi đầy yêu thương.
Sau này, ngài lập một dòng tu chuyên chăm sóc bệnh nhân, gọi là Dòng Tôi Tớ Bệnh Nhân. Khi dịch bệnh lan tràn, ai cũng bỏ chạy vì sợ lây, nhưng thánh Camêlô lại là người dám chạy đến bên họ, vì ngài tin: “Nơi người đau khổ, tôi gặp được chính Chúa Giêsu.”
Các con thân mến,
Thánh Camêlô từng là người bị bỏ rơi, từng sống bên lề cuộc sống. Nhưng chính từ nơi đó, ngài đã gặp được Chúa Giêsu không chỉ ở nơi nhà thờ, mà Chúa Giêsu còn hiện diện nơi những con người đau khổ, bệnh tật, không ai đoái hoài. Chính từ trái tim bị tổn thương, thánh nhân đã hiểu được nỗi đau của người khác và quyết định sống cả cuộc đời để yêu thương và chữa lành.
Ngài đã không hỏi: “Người này có xứng đáng được giúp không?”
Ngài không cần biết người ấy là ai, chỉ cần biết họ đang đau khổ.
Ngài tin rằng: mỗi người đau khổ đều là hình ảnh của Chúa Giêsu đang cần được yêu thương.
Và đó cũng là điều Chúa Giêsu mong nơi mỗi chúng ta.
Cha kể cho các con thêm một câu chuyện khác nữa. Đây là một câu chuyện kể về một vị vua khôn ngoan và rất giàu có. Vị vua ấy có tất cả mọi thứ: cung điện lộng lẫy, ngọc ngà châu báu và cả một đội quân hùng hậu. Nhưng điều làm nhà vua buồn nhất, đó là ông không có con nối dõi.
Sau nhiều năm suy nghĩ, nhà vua quyết định tìm một người xứng đáng để trao lại ngai vàng. Nhưng thay vì tổ chức thi tuyển hay chọn người có chức quyền, vua đã làm một điều khiến ai cũng bất ngờ: nhà vua cải trang thành một người ăn xin nghèo khổ, ngồi bên vệ đường, áo thì rách tả tơi và lấm lem bụi đất.
Ngày qua ngày, nhà vua ngồi trước cổng thành, nơi dân chúng qua lại tấp nập. Có người lảng tránh vì sợ dơ, có người xua đuổi vì cho rằng ông làm mất mỹ quan kinh đô. Có người chẳng thèm nhìn ông, cứ vội vàng đi qua. Nhưng một buổi chiều nọ, có một chàng trai trẻ nghèo bước tới. Chàng dừng lại, với ánh mắt nhân hậu nhìn nhà vua, chàng cởi áo choàng mình ra, khoác vào cho ông và đưa cho ông một miếng bánh mì duy nhất mà mình có. Chàng hỏi: “Ông ơi, ông có lạnh không? Có đau ở đâu không?” Chàng trai ngồi xuống cạnh ông, lau đi giọt nước mắt trên má ông và lấy tay quạt cho ông mát.
Hôm sau, nhà vua truyền lệnh triệu tập chàng trai ấy vào hoàng cung. Chàng rất ngạc nhiên vì không hiểu chuyện gì. Nhưng khi bước vào điện, chàng kinh ngạc vì thấy người ăn xin hôm trước đang ngồi trên ngai vàng, trong bộ long bào rực rỡ. Nhà vua mỉm cười hiền hậu và nói: “Chính con là người mà ta chọn làm người nối dõi ngai vàng, vì giữa muôn người, chỉ có con là người đã dừng lại, nhìn thấy nỗi đau, và biết yêu thương.”
Các con thấy không? Vị vua ấy giống như Chúa Giêsu. Ngài cũng không ngồi mãi trên ngai trời, nhưng đã đến thế gian, mặc lấy thân phận nghèo hèn, để xem ai là người thật sự biết yêu thương. Và biết đâu, người ăn xin bên đường hôm nay mà các con lảng tránh, lại chính là Chúa đang thử lòng chúng ta?
Các con biết không, để sống như người Samaritanô nhân hậu, không cần các con làm điều to lớn. Các con chỉ cần bắt đầu từ những việc nhỏ hằng ngày:
Biết giúp đỡ người nghèo khổ ở ven đường,
Biết tặng cho bạn nghèo một món đồ chơi,
Biết ôm cha mẹ một cái thật chặt khi cha mẹ mệt,
Biết lắng nghe bạn bè, khi bạn buồn,
Biết nói một lời yêu thương hiếu thảo với ông bà,
Biết thầm cầu nguyện cho những người đau khổ…
Chỉ vậy thôi, các con cũng đang trở nên người thân cận; và các con có biết không, người Samaritanô vĩ đại nhất chính là Chúa Giêsu. Chúa đã thấy chúng ta là những người mệt mỏi, bị tổn thương vì tội lỗi, vì đau khổ, vì cô đơn… Chúa không bước qua. Ngài luôn dừng lại. Ngài đã cúi xuống. Ngài đã ôm lấy từng người chúng ta bằng tình yêu trên Thập giá. Ngài đã chữa lành bằng tình yêu không điều kiện.
Các con yêu quý,
Cha không mong các con nhớ hết bài giảng hôm nay. Cha chỉ mong rằng sau Thánh lễ này, khi bước ra khỏi nhà thờ, nếu thấy ai đang đau khổ, đang buồn bã, đang bị bỏ quên…
Các con hãy dừng lại.
Dừng lại một chút…
Để yêu thương.
Để lắng nghe.
Để giống Chúa Giêsu.
Vì sống đạo không những phải đọc kinh và đi lễ, mà còn sống với trái tim giống Chúa, một trái tim biết động lòng thương.
Hôm nay, các con hãy tự hỏi mình:
Ai là người bên vệ đường trong đời con?
Ai đang đợi con đến gần để giúp đỡ?
Ai đang cần một bàn tay của các con, một ánh mắt của các con, một nụ cười nhỏ của các con?
Nếu các con sống được như vậy, các con không chỉ nghe Tin Mừng mà các con trở thành một trang Tin Mừng sống động, nhỏ bé, nhưng thật đẹp giữa cuộc đời này.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho chúng con biết dừng lại,
trước nỗi đau của người khác,
trước giọt nước mắt chưa ai lau,
trước nỗi cô đơn chưa ai vỗ về.
Xin cho trái tim chúng con đừng vô cảm,
mà biết yêu như Chúa đã yêu,
biết sống như Chúa đã sống.
Xin cho mỗi việc nhỏ con làm hôm nay,
trở nên một tiếng hát yêu thương,
một bước chân của lòng xót thương.
Amen.
Lm Phêrô Maria Nguyễn Thái Công, CRM.
Chúa Nhật XV Thường Niên - Năm C
“NHỮNG NGƯỜI TỔN THƯƠNG BÊN VỆ ĐƯỜNG CUỘC ĐỜI?”
(Lc 10,25-37)
Anh chị em thân mến,
Trên hành trình đức tin, một trong những câu hỏi luôn vang vọng trong sâu thẳm tâm hồn chúng ta: “Tôi phải làm gì để được hưởng sự sống đời đời?” Đó không chỉ là nỗi thao thức của người Thông luật trong trang Tin Mừng hôm nay, mà còn là khát vọng chân thành của mỗi Kitô hữu đang một lòng tìm kiếm Thiên Chúa. Thay vì đưa ra một giáo huấn mới, Chúa Giêsu đã dẫn người Thông luật quay về với chính Lề Luật đã được khắc ghi trong con tim của Dân Chúa từ ngàn xưa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi… và yêu thương tha nhân như chính bản thân mình.” (x.Đnl 6,5; x.Lv 19,18; x.Lc 10,27).
Thế nhưng, vị Thông luật ấy cũng giống như chúng ta nhiều khi không chấp nhận dừng lại ở câu trả lời mang tính chữ nghĩa. Nhưng mấu chốt nằm ở chỗ “Ai là người thân cận của tôi?” Vị Thông luật cố tình đặt câu hỏi ấy, không phải vì ông thiếu sự hiểu biết về Lề Luật, nhưng bởi ông đang tìm cách biện minh cho cách sống của mình, một lối sống chỉ giới hạn trong vòng tròn an toàn, chỉ yêu thương những ai cùng phe nhóm, cùng giai cấp, cùng tôn giáo, cùng tư tưởng… Chính vì thế, Chúa Giêsu đã đáp lại ông và cũng là đáp lại tất cả mỗi người chúng ta, bằng dụ ngôn về hình ảnh của ba nhân vật trong bài Tin Mừng hôm nay, phản ánh cách hành xử và thái độ trước nỗi đau và sự khốn khổ của tha nhân. Ba khuôn mặt: bọn cướp, vị Tư tế cùng thầy Lêvi và người Samaritanô không chỉ đại diện cho ba lối hành xử của con người, mà còn là ba thái độ hành xử mà mỗi người trong chúng ta có thể đang mang trong chính cuộc đời mình:
Triết lý của bọn cướp, “Của anh là của tôi, tôi sẽ chiếm lấy”
“Bọn cướp đã lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết” (Lc 10, 30). Đây là triết lý của những người có lòng tham, vụ lợi, ích kỷ, vô cảm. Họ không quan tâm đến hậu quả, không nghĩ đến người khác. Điều họ muốn là đạt được điều mình muốn, bằng mọi giá. Đó cũng là hình ảnh lòng tham vô độ của con người, của chủ nghĩa tiêu thụ, của việc sử dụng người như phương tiện để thỏa mãn bản thân. Và đáng buồn thay, những “tên cướp” không chỉ xuất hiện trong Tin Mừng, mà ngày hôm nay còn xuất hiện trong đời sống xã hội, trong các gia đình thiếu tình thương… nơi đó, danh dự, lòng tin và phẩm giá bị bị cướp đoạt từng ngày.
Triết lý của thầy Tư tế và thầy Lêvi, “Của tôi là của tôi, tôi không chia sẻ”
Tiếp đến là triết lý sống của Tư tế và thầy Lêvi. Thầy Tư tế và thầy Lêvi đều nhìn thấy người bị nạn, nhưng cả hai đều tránh sang một bên và bỏ đi, không ai dừng lại giúp đỡ. Họ là những người được tôn trọng, có địa vị, nắm giữ vai trò trong đền thờ. Họ thấy người bị nạn nhưng lặng lẽ đi ngang qua. Họ không đánh đập, không cướp bóc, nhưng cũng không giúp đỡ. Họ không làm điều ác, nhưng cũng không làm điều thiện. Lý do? Có thể vì sợ ô uế, sợ rắc rối, sợ vi phạm luật thanh sạch. Nhưng cũng có thể vì họ quá bận rộn với việc giữ đạo, đến mức quên sống đạo. Họ quá tập trung vào các nghi lễ, đến mức quên mất tha nhân.
Lối sống của họ như thể họ nói rằng: “Của tôi là của tôi, tôi không chia sẻ.” Một tôn giáo bị trói buộc trong hình thức và các quy tắc, không còn chỗ cho lòng thương xót, không còn là con đường dẫn đến sự sống, mà chỉ là chiếc vỏ rỗng của đạo đức tôn giáo.
Phải chăng chính chúng ta cũng có lúc giống họ? Có thể chúng ta không làm điều xấu, nhưng chúng ta đã nhiều lần bỏ qua cơ hội làm điều thiện. Có thể chúng ta chăm chỉ đi lễ, đọc kinh, tham gia các hội đoàn, nhưng lại lạnh lùng với những người đau khổ xung quanh mình. Có thể chúng ta giữ đạo cách nghiêm ngặt, nhưng lại để người thân trong gia đình bị tổn thương vì những lời nói vô tâm, những hành động vô cảm. Khi đời sống đạo chỉ còn là bổn phận mà không còn là tình thương, thì lúc đó rất có thể chúng ta là những thầy ‘Tư tế, Lêvi’ đã bước ngang qua nỗi đau khổ của tha nhân, họ là những người bên lề đường của thời nay mà chúng ta không mảy may xúc động.
Triết lý của người Samaritanô, “Của tôi là của anh, tôi chia sẻ với anh”
Trái ngược hoàn toàn với hai lối sống khép kín và vị kỷ là hình ảnh rực sáng của người Samaritanô nhân hậu, người mà xã hội Do Thái thời đó xem là “ngoại đạo”, là kẻ bị gạt ra bên lề. Chính người bị loại trừ ấy lại dừng lại, cúi xuống, nâng người bị nạn dậy, băng bó vết thương, lo liệu nơi ăn chốn ở và không tiếc công sức để chữa lành.
Anh ta không hề hỏi người bị hãm hãi: “Anh là ai? là người Do Thái hay người Samari?”, “Anh có cùng niềm tin với tôi không?”, “Anh có thuộc về nhóm người của tôi ? Có thuộc về địa vị, huyết thống, niềm tin, hay sở thích hay không?”, càng không hỏi: “Anh có xứng đáng được giúp không?” Không. Chúng ta không thấy bất kỳ câu hỏi nào như thế. Chúng ta chỉ thấy một trái tim biết động lòng trắc ẩn, một con người hành động trong vội vã và khẩn trương, bởi lẽ anh chỉ nhìn thấy một người đang cần được yêu thương.
Lối sống của anh chính là tiếng nói của lòng quảng đại: “Của tôi là của anh, tôi chia sẻ với anh.” Một lối sống không bị ràng buộc bởi ranh giới tôn giáo hay giai cấp, mà được dẫn dắt bởi tình yêu thương vượt lên mọi thành kiến.
Người Samaritanô ấy chính là biểu tượng sống động của tình yêu Kitô giáo đích thực. Một tình yêu “không biên giới, không sắc tộc, màu da, không phân biệt niềm tin, không điều kiện, không tính toán”. Anh không chỉ giúp đỡ bằng thể lý, mà còn trao ban chính cả con người mình: thời gian, công sức, của cải, lòng trắc ẩn và cả sự can đảm vượt lên sợ hãi và định kiến.
Anh đã làm điều lẽ ra những người được gọi là “có đạo” phải làm, nhưng lại không làm. Điều khiến anh trở nên khác biệt không nằm ở lý lịch, tri thức hay địa vị, mà nằm ở một trái tim biết chạnh lòng thương, một trái tim đã để lòng trắc ẩn dẫn lối, thay vì giáo điều hay ranh giới xã hội.
Câu chuyện kết thúc bằng một lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.” Một lời không chỉ dành riêng cho người thông luật năm xưa, mà còn vang vọng đến từng người chúng ta hôm nay.
Đức Giêsu không kể dụ ngôn chỉ để làm rung động cảm xúc, mà để lay chuyển ý chí, con tim để thúc đẩy chúng ta hành động. Ngài muốn khơi dậy nơi chúng ta lòng trắc ẩn, đánh thức trong ta khả năng nên giống Ngài, Đấng đã cúi xuống thân phận nhân loại bằng một tình yêu tự hiến, không giữ lại điều gì cho riêng mình.
Anh chị em thân mến,
Sau khi kể dụ ngôn Người Samaritanô nhân hậu, Chúa Giêsu đã không hỏi người thông luật rằng: “Ai là người thân cận của ông?” mà Ngài hỏi: “Ai đã tỏ ra là người thân cận với người bị nạn?” Câu trả lời thật rõ ràng và giản dị: “Là người đã tỏ lòng thương xót.” Chúa Giêsu không đưa ra một định nghĩa mang tính lý thuyết về sự “thân cận”, nhưng Ngài chỉ cho thấy rằng, “tình thân cận” không nằm ở danh xưng, địa vị hay mối liên hệ xã hội, mà được minh chứng bằng hành động và lòng thương cảm.
Vì thế, thay vì hỏi: “Ai là người thân cận của tôi?”, thì chúng ta phải tự hỏi: “Tôi đã thực sự trở thành người thân cận của ai chưa?” Người thân cận ấy, không được xác định bằng huyết thống, tôn giáo hay địa vị xã hội. Người thân cận chính là người mà ta sẵn lòng cúi xuống để lắng nghe, để cảm thông, để yêu thương và phục vụ, bất kể họ là ai.
Người ấy có thể đang hiện diện bên ta mỗi ngày: là người chồng thầm lặng chịu đựng mà ta chưa từng dành một lời hỏi han, là người vợ tận tụy hy sinh biết bao công việc trong gia đình nhưng ta lại vô tình không nhận ra, là những đứa con luôn khát khao một ánh mắt ấm áp, nhưng ta lại mải miết với điện thoại và bộn bề công việc, là cha mẹ già yếu đang đợi chờ một bữa cơm sum họp, một cái nắm tay trìu mến.
Người ấy cũng có thể là người nghèo lạnh run nơi cuối con hẻm vắng, là kẻ xa lạ nép mình bên góc phố ồn ào, là người bị xã hội hắt hủi, là kẻ tội lỗi đang oằn mình dưới những ánh mắt khinh chê, hay thậm chí là người từng khiến ta đau lòng. Tất cả họ là những người yếu thế, họ đã bị vỡ vụn và bị bỏ quên và đang nằm ở “ven lề đường” của cuộc đời chúng ta. Và mỗi ngày, khi ta lặng lẽ “đi từ Giêrusalem đến Giêricô” trên hành trình cuộc đời của mình, chúng ta vẫn thường bắt gặp họ: không phải như một ngẫu nhiên, mà như một lời mời gọi âm thầm liệu ta có sẵn sàng dừng bước, cúi mình và mở lòng? Nếu ta đủ can đảm để nhìn họ bằng ánh mắt của Chúa Giêsu, ta sẽ nhận ra nơi họ chính là dung mạo của Ngài, Đấng đã từng bị đánh đòn, bị bỏ rơi và đang khao khát được chạm đến bằng lòng nhân hậu của con người.
Từ đó, lời mời gọi của Đức Giêsu “Anh hãy đi và cũng hãy làm như vậy” không còn là một khuyến nghị, nhưng là một sứ mạng. Đó là lời sai đi dành cho từng người Kitô hữu. Chúa không tìm kiếm nơi ta những lời đạo đức trơn tru, nhưng là một tình yêu cụ thể và sống động.
Và sau cùng, người Samaritanô nhân hậu trong dụ ngôn ấy chính là hình ảnh của Chúa Giêsu Kitô. Ngài là Đấng đã thấy nhân loại bị tổn thương bởi tội lỗi, bị vùi dập bởi sự ác, bị bỏ rơi bởi lòng người. Ngài không đi qua, không ngoảnh mặt, nhưng đã cúi xuống, băng bó vết thương nhân loại bằng Máu và Nước chảy ra từ cạnh sườn Người trên thập giá. Ngài đã đem chúng ta vào quán trọ lòng thương xót của Chúa Cha và hứa sẽ trở lại chăm sóc cho đến khi chúng ta được chữa lành trọn vẹn.
Thưa anh chị em,
Nếu hôm nay Chúa Giêsu đứng giữa cộng đoàn chúng ta và hỏi: “Theo con nghĩ, ai đã là người thân cận?”, thì chúng ta sẽ trả lời ra sao? Nếu Ngài hỏi: “Con đã làm như người Samaritanô chưa?”, thì câu trả lời của chúng ta sẽ là gì?
Nguyện xin Chúa cho mỗi người chúng ta, sau khi ra về từ Thánh lễ này, không chỉ mang theo cảm xúc, mà mang theo một quyết tâm sống yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương. Đừng chỉ là Kitô hữu trên danh nghĩa, nhưng là chứng nhân thật sự của lòng thương xót giữa cuộc đời. Đừng chỉ hỏi “ai là người thân cận của tôi?” nhưng hãy sống như người thân cận của tất cả những ai cần đến mình.
Lạy Chúa Giêsu là Người Samaritanô đích thực, xin cho chúng con một trái tim biết dừng lại trước nỗi đau của người khác, biết cúi xuống để chia sẻ, biết yêu thương không giới hạn. Xin dạy chúng con biết sống như Chúa đã sống, yêu như Chúa đã yêu, tha thứ như Chúa đã tha thứ. Xin cho chúng con đừng chỉ giữ đạo bằng luật lệ, nhưng sống đạo bằng trái tim. Để qua cuộc đời chúng con, Tin Mừng của Chúa được lan tỏa đến mọi người, mọi nơi, và mọi lúc. Amen.
Lm Phêrô Maria Nguyễn Thái Công, CRM.
HÃY LÀM NHƯ NGƯỜI SAMARITANÔ
CHÚA NHẬT XV THƯỜNG NIÊN – NĂM C
(Lc 10, 25 – 37)
Hôm nay, chúng ta tự hỏi: “Ai là anh em của tôi?” (Lc 10, 29).
Chuyện kể rằng, một số thầy người Do thái thấy một thầy Do thái kia hay vắng mặt vào giờ cầu nguyện thứ Bẩy hằng tuần. Các thầy kia nghi ngờ người anh em có gì bí mật với Thiên Chúa, nên bàn bạc với nhau cử một thầy theo dõi người anh em… Thế là, ông thầy được cử tò mò tìm kiếm, nhưng thật xúc động vì thấy người anh em mình vào chiều thứ Bẩy đến một khu phố nghèo trong thành dọn nhà cho một bà đang bị bại liệt, và phục vụ giúp bà, chuẩn bị bữa cơm cho bà. Khi điệp viên trở về, những thầy Do thái ở nhà đã hỏi: “Ông ấy ở đâu? ở trên trời, trên các tầng mây hay giữa các vì sao?”. Thầy được sai đi trả lời: “Không, người anh em của chúng ta đã được đưa lên nơi rất cao”.
Yêu bằng hành động
Yêu người thân cận thể hiện bằng hành động cụ thể là cao cả nhất; vì đây là lúc mà tình yêu được thể hiện. Chỉ có mình Chúa Kitô kêu lên, “thấy người nghèo, đừng bỏ đi qua” để thức tỉnh lòng bác ái nơi các môn đệ. Công đồng Vatican II trong một tài liệu đã chép: Làm “người Samaritanô” có nghĩa là thay đổi kế hoạch của mình ( “đến gần anh ta”), dành thời gian để (“chăm sóc anh ta”) … Điều này cũng đúng với nhân vật chủ quán, như thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói: “Người Samaritanô đã có thể làm mà không có chủ quán? Thật vậy, người chủ quán, người vô danh ấy, đã thi hành nhiệm vụ cách cao cả. Tất cả chúng ta cũng có thể hành xử như ông ta, hoàn thành nhiệm vụ của riêng mình với tinh thần phục vụ. Tất cả chúng ta đều có cơ hội, nhiều hay ít trực tiếp hay gián tiếp, để giúp đỡ những người cần giúp. Trung thành thi hành sứ vụ là yêu mến mọi người.
Hãy vứt bỏ sau lưng cái chưa cần thiết để đón nhận người đang cần đến chúng ta, (người Samaritanô nhân hậu) và ông chủ quán đã làm việc của mình với tình yêu, cả hai đều thể hiện tình yêu bằng việc làm cụ thể. Chúa Giêsu đã hỏi nhà thông luật: “Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rời vào tay bọn cướp?” Và Chúa bảo ông: “Ông cũng hãy đi và làm như vậy ” (Lc 10,36-37).
Chúa Giêsu chính là người Samaritanô
Chúa Giêsu Kitô tự nhân mình là người Samaritanô đi ngang qua, khi những người Pharisiêu xúc phạm Chúa và nói: “Ông là một người Samaritanô và là người bị quỷ ám” (Ga 8, 48 ) … Vậy người hành hương Samaritanô là chính Chúa Giêsu, vì Chúa Giêsu thực sự là một lữ hành đã gặp con người bị thương do tội lỗi, do ma quỷ, thế gian tra tấn, đang nằm sõng soài trên mặt đất . Chúa đã không bỏ qua, bởi vì mục đích cuộc hành hương của Chúa nhằm để “viếng thăm chúng ta” (Lc 1, 68.78). Người đã từ trời lữ hành xuống thế và cư ngụ giữa chúng ta. Người không chỉ “xuất hiện trên đất, nhưng còn sống và trò chuyện với con người” (Br 3,38) …
Người đã đổ rượu, rượu của Lời Chúa trên các vết thương của chúng ta, và như mức độ nghiêm trọng của vết thương không thể chịu được, Người đã pha trộn rượu với dầu là sự êm dịu của Người và “tình yêu Người dành cho nhân loại” (Tit 3 4) … Sau đó, đưa con người đến quán trọ. Quán trọ ở đây là Giáo hội, Giáo hội đã trở thành nơi ở và nơi ẩn náu của toàn dân … Chính Chúa Kitô ở trong Giáo hội, Người trao ban hồng ân… Quán trọ ở đây còn là nhà chầu có chủ quán là Chúa Giêsu đón mời. Các Thánh Tông đồ và các Mục tử, các Tiến sĩ và những người kế vị tượng trưng cho chủ quán trọ… Các ngài chăm sóc bệnh nhân là chúng ta bằng Lời Chúa, Cựu Ước và Tân Ước, bằng Lề luật Thánh và các tiên tri.
Hãy đi và làm như vậy
“Hãy đi và làm như vậy” (Lc 10,37, đó là lời của Chúa Giêsu dành cho nhà thông luật khi xưa. Hôm nay, Chúa cũng bảo mỗi người chúng ta “Hãy đi và làm như vậy”.
Có người hỏi: Hãy đi và làm như vậy là thế nào? Là làm như người Samaritanô nhân hậu đã làm. Tất cả chúng ta phải tiếp tục nhiệm vụ của người Samaritanô nhân hậu bên cạnh những người chúng ta gặp và chân thành giúp đỡ, băng bó các vết thương thể xác và tinh thần cho họ, những vết thương lòng, nghèo đói, ốm đau, bệnh tật, cô đơn và chết chóc… Đừng ngồi đặt vấn đề: Ai là anh em tôi? Nhưng hãy đi và tỏ ra mình là anh em của mọi người. Đừng dừng lại tìm xem người đó là ai, có đạo hay không có đạo. Nhưng hãy đi và làm như người Samaritanô kia, nhìn thấy vết thương thì băng bó, gặp người đau khổ phải cứu giúp. Cần vượt qua quan niệm hẹp hòi, đi đến tình huynh đệ phổ quát.
Thánh Gioan Phaolô II giáo hoàng nói: “Người Samaritanô nhân hậu là bất kỳ ai nhạy cảm với nỗi đau khổ của người khác, là người “cảm động” trước bất hạnh của người lân cận mình. Chúng ta cần phải nuôi dưỡng sự nhạy cảm của trái tim, vì nó làm chứng cho lòng trắc ẩn của ta đối với những người đau khổ”.
Lạy Chúa, mỗi lần chúng con thấy người anh em mắc nạn, xin giúp chúng con biết hành động thương xót anh em như Chúa đã thương xót chúng con. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Khi nói đến lời của một ai là chúng ta nói đến chính con người đó. Khi tôn trọng và quý mến người nào, thì chúng ta cũng tôn trọng quý mến lời dạy và gương sáng của người ấy. Một nhân vật càng uy tín bao nhiêu thì lời nói của người ấy càng được lắng nghe và đón nhận. Cũng vậy, khi nói đến Lời Chúa hoặc Luật Chúa, là chúng ta nói chính Thiên Chúa, Đấng quyền năng và yêu thương mỗi người và tất cả chúng ta.
Hai chữ “lề luật” dễ gợi cho chúng ta liên tưởng tới những ràng buộc, hạn chế và gây phiền toái cho con người. Tuy vậy, những điều được quy định trong dân luật cũng như trong Giáo Luật đều nhằm giúp ổn định trật tự cuộc sống, bảo vệ công ích và giúp thăng tiến con người. Một người công dân tuân giữ luật pháp sẽ góp phần làm cho quốc gia phồn thịnh. Một người tín hữu tuân giữ luật Giáo Hội sẽ góp phần làm cho đức tin thăng tiến nơi bản thân và cộng đoàn.
Lề Luật của Chúa không giống như những bộ luật dân sự, là luật chỉ nhằm quy định những gì bên ngoài con người, và chỉ nhằm duy trì trật tự xã hội. Ông Môi-sen nói với dân: “Lời Chúa rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành. Theo giáo huấn của ông Môi-sen, Lề Luật và Lời của Chúa phải thấm nhập vào chính con người của những ai tin Chúa, đồng thời trở thành động cơ cho mọi hoạt động, mọi gợi ý cho tư tưởng. Cũng trong tinh thần này, mà những người Do Thái đạo đức thường khởi đầu ngày mới bằng kinh cầu nguyện được gọi là “Shema Israel”: ” Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em.” (Đnl. 6, 4-5). Lời kinh này giúp người tín hữu luôn ý thức sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời, và họ cố gắng tìm cách sống đẹp lòng Người.
Nếu dân tộc Do Thái trong Cựu ước sống theo Luật ông Môi-sen, là luật bằng văn tự, thì Đức Giê-su Ki-tô chính là hiện thân của Lề Luật, là sự sống động của lề luật, và là con đường để con người có thể đến gần với Thiên Chúa thông qua việc yêu thương và vâng phục. Nói thế không có nghĩa Chúa Giê-su đến để hủy bỏ luật cũ, như chính Người đã khẳng định: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Lề Luật hay các Ngôn sứ, Thầy không đến để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17).
Qua dụ ngôn người Sa-ma-ri-a nhân hậu, Chúa Giê-su khẳng định tính mới mẻ trong giáo huấn của Người: Những người đi qua người bị nạn trước hết là một tư tế, rồi thầy Lê-vi. Xin lưu ý hai người này là những người Do Thái đạo đức và học hành uyên thâm, nhưng họ đã làm ngơ trước người bị nạn. Trong khi đó, người Sa-ma-ri-a là một người ngoại, cũng là một dân tộc bị người Do Thái mang mối thù truyền kiếp qua nhiều thế hệ. Người này cũng chẳng học hành uyên thâm và không mang chức vụ danh nghĩa nào. Ấy vậy, mà ông đã cứu giúp người gặp nặn. Mối quan tâm của thầy tư về và Lê-vi là khái niệm về sự thanh sạch và sự tuân giữ tỉ mỉ Lề Luật ông Môi-sen. Mối quan tâm của người Sa-ma-ri-a là con người trong cơn hoạn nạn, bất kể đó là ai. Trong dụ ngôn, Chúa Giê-su khéo léo dùng những hình ảnh tương phản giữa các nhân vật: người thông luật thì thiếu bác ái; người chẳng hiểu gì về luật, thì lại có lòng cảm thương. Qua câu chuyện này, Chúa Giê-su muốn nêu bật ý nghĩa mới mẻ của đức yêu thương mà Người giảng dạy. Đó là đức bác ái đích thực. Bởi lẽ con người ta chỉ được hạnh phúc khi làm cho người khác được hạnh phúc. Sự chu đáo của người Sa-ma-ri-a, hứa sẽ trả tiền thêm khi quay về, làm nổi bật lòng nhân hậu của ông. Dụ ngôn này là lời mời gọi những người Do Thái có mặt hãy nhìn đức ái với một khía cạnh khác.
Người thông luật đặt câu hỏi với Chúa Giê-su, là muốn thử Người. Những điều ông chờ đợi từ câu hỏi của Chúa, đơn giản chỉ là những nguyên tắc ghi sẵn trên sách vở, hoặc những điều mà các luật sĩ rao giảng hằng ngày. Việc người thông luật trả lời làu làu những nguyên tắc này cho thấy ông muốn tỏ mình là người thông thạo khôn ngoan. Chúa Giê-su không bằng lòng với những khuôn sáo lý thuyết, mà Người mời gọi con người hãy thực hành đức yêu thương. Câu nói cuối cùng của Chúa, vừa gợi mở một bài học sâu sắc, vừa giúp chúng ta nhìn lại bản thân để xem xét cách ứng xử của mình: “Ông hãy đi và hãy làm như vậy”. Tác giả Lu-ca không cho biết thêm người ấy phản ứng thế nào sau câu nói của Chúa. Có thể Lu-ca muốn mỗi chúng ta đều nhận ra mình nơi nhân vật người thông luật đó.
Chúa Giê-su không chỉ là người dạy về lề luật mà còn là tấm gương để mọi người noi theo. Bằng cách sống theo lời dạy của Người, người tín hữu có thể thể hiện tình yêu thương và sự vâng phục đối với Thiên Chúa, từ đó sống một cuộc đời ý nghĩa và đẹp lòng Ngài. Những gì được Thánh Phao-lô viết trong Thánh thi ca ngợi đã nêu rõ vai trò của Đức Giê-su trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Người là đích điểm cuộc đời của chúng ta. Nhờ máu Người mà chúng ta được thanh tẩy mọi tội lỗi. Nhờ sự chết và phục sinh của Người mà chúng ta được trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa, được Thiên Chúa yêu thương với tình yêu khôn tả mà Ngài đã dành cho người Con Một yêu dấu (Bài đọc II).
Lề Luật của Chúa Giê-su tóm gọn trong hai chữ “yêu thương”. Thánh Phao-lô khẳng định: “Đã yêu thương thì không làm hại đồng loại. Yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13,10). Thánh Gio-an tông đồ nói: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm”. Người Sa-ma-ri-a đã làm như thế.
Xin Chúa đánh động con tim chúng ta, để biết cảm thương những anh chị em thiệt phận khó nghèo.
+TGM Giu-se Vũ Văn Thiên
Trong bối cảnh thế giới hiện nay đầy những chia rẽ, hận thù, tên lửa tiếp tục bay, bom chưa ngừng rơi, khủng hoảng môi sinh và nhất là tình anh em, sự thờ ơ gia tăng trước nỗi đau của đồng loại. Dụ ngôn người Samaria nhân hậu trong Tin Mừng Lu-ca (10,25–37) vang lên như một tiếng chuông thức tỉnh xã hội cũng như Giáo hội. Lời Đức cố Giáo hoàng Phan-xi-cô trong Thông điệp Fratelli Tutti khẳng định: “Tất cả là anh em“, mời gọi chúng ta gẫm suy về vai trò của mỗi chính mình trong việc kiến tạo tình anh em trong thế giới hôm nay.
Người Samaria nhân hậu, hình ảnh sống động của tình liên đới
Chúa Giê-su kể cho người thông luật dụ ngôn (x. Lc 10, 25-37). Vị tư tế và thầy Lê-vi, cả hai đều liên quan đến việc phụng tự nơi đền thờ, gặp một người từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-cô bị hại. Từ Giê-ru-sa-lem tức là đồng hương, nhưng họ không cần biết; không giúp đỡ, bỏ qua. Trong khi đó, người Samaria, bị coi là ô uế và bị khinh miệt, trông thấy người bị hại, ông “động lòng thương” (Lc 10, 33), ông không bỏ qua như hai người kia, ông đến gần người ấy, “băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa mình, đưa về quán trọ săn sóc” (Lc 10, 34). Chúa Giê-su kể: “Ông động lòng thương“, nghĩa là tâm can ông cảm động. Khác với hai người kia “trông thấy”, nhưng con tim của họ đóng kín, lạnh lùng. Trái lại, con tim của người Samaria rung động. “Động lòng thương” là đặc tính cốt lõi của lòng thương xót Chúa. Trái tim người Samaria đồng điệu với trái tim Thiên Chúa.
Đức Thánh Cha Phan-xi-cô viết : “Chúa Giê-su chọn một nhân vật bị coi thường để minh họa cho tình yêu thương không ranh giới. Người Samari dừng lại, cúi xuống, và chăm sóc. Đó là tình huynh đệ biết hành động.” (Fratelli Tutti, số 63–75). Chúa Giê-su không hỏi: “Ai là anh em của tôi? “. Chúa đảo ngược vấn đề: “Tôi là anh em của ai?”
Người Samaria ấy không hỏi nạn nhân là ai, thuộc dân nào, đạo nào, ông chỉ thấy một con người gặp nạn đang cần giúp đỡ. Ông đúng là hình ảnh sống động của tình anh em mà Chúa muốn gửi đến chúng ta hôm nay.
Người hành hương hy vọng, chứng nhân của tình anh em
Chúng ta đã sống nửa chặng đường của Năm Thánh 2025 mang chủ đề: “Những Người Hành Hương Hy Vọng“, không chỉ để nói về niềm vui mai sau trong hy vọng, nhưng thắp sáng hy vọng trong hiện tại. Trên bước đường hành hương thiêng liêng ấy, qua Dụ Ngôn người Samaria, Chúa Giê-su muốn chúng ta là những “người Samaria” cho thời đại mà nền văn hóa dửng dưng và thờ ơ gia tăng: Dám dừng lại, dám chăm sóc, rồi hãy lên đường.
Người hành hương hy vọng là người không dửng dưng trước nỗi đau của tha nhân, không bị che mắt bởi định kiến, chủ nghĩa cá nhân, hay ích kỷ, không bó tay trước bất công, nhưng góp phần chữa lành các vết thương xã hội. Trên hết là người sống tình anh em và gieo mầm hy vọng Tứ Hải Giai Huynh Đệ. Sống yêu thương, đùm bọc người với người, đề cao tình tương thân tương ái, trọng nghĩa anh em. Dù ở đâu, làm gì cũng gắn bó, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau. Có thế, mới tạo nên một thế giời hòa bình và hạnh phúc được.
Tình anh em là con đường dẫn đến hòa bình
Hòa bình không đến từ những thỏa thuận chính trị hay lợi ích kinh tế, mà từ trái tim được hoán cải, biết đón nhận nhau như anh em. “Chỉ bằng cách sống tình anh em, thế giới mới có thể chữa lành. ” (Fratelli Tutti, số 228).
Lúc sinh thời, Đức cố Giáo hoàng Phan-xi-cô thấy “Thế giới đang rơi vào một loại ‘chiến tranh từng mảnh’. Chúng ta dựng lên những bức tường, thay vì xây cầu.” (Fratelli Tutti, số 27). Ngài tha thiết kêu gọi các nhà lãnh đạo các quốc gia: “Hãy xây dựng xã hội dựa trên tình huynh đệ, trong đó con người có thể gặp gỡ nhau như anh chị em, không phải như kẻ thù hay người xa lạ.” (Fratelli Tutti, số 128). Không có tình anh em, hòa bình chỉ là ảo tưởng.
Thế giới đang bị tổn thương vì chiến tranh, chia rẽ, ích kỷ và vô cảm, dụ ngôn người Samaria là một tiếng kêu mời gọi Giáo hội và từng người chúng ta trở thành khí cụ của tình anh em và hòa giải. “Chúng ta yêu thương nhau, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước.” (1 Ga 4,19). Và, “Anh em hết thảy đều là anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Đấng ngự trên trời.” (Mt 23,8-9). Công đồng Vatican II đã khẳng định: “Mọi người đều được mời gọi như nhau để nên thánh và hoàn thiện trong đức ái, bởi vì họ được thông phần cùng một bản tính Thiên Chúa” (Lumen Gentium, số 40).
Đức cố Giáo hoàng Phan-xi-cô muốn Giáo hội trở thành “Nhà thương dã chiến“, nơi mọi người, nhất là những ai bị tổn thương, được chăm sóc và yêu thương. Ngài viết: “Tôi mơ một Giáo hội là mẹ của tất cả, một ngôi nhà mở ra với mọi người, không loại trừ ai.” (Fratelli Tutti, số 276).
Xin Chúa biến chúng ta thành những chứng nhân của tình anh em không biên giới. A-men.
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
Ai là người thân cận của tôi? Đó là câu hỏi của nhà thông luật hỏi Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay. Thay vì trả lời trực tiếp cho ông ta, thì Chúa Giêsu đã kể cho ông ta nghe một dụ ngôn: Người Samaritano nhân lành.
Nhưng tại sao người Samaritano lại được gọi là nhân lành? Thật vậy, thưa anh chị em, thánh Luca đã mô tả rằng: Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô và rơi vào tay bọn cướp. Chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ một tư tế cũng đi qua con đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy, một thầy Levi khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua. Nhưng một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa mình, đưa về quán trọ săn sóc. Như vậy chúng ta thấy người Samaritano lại được gọi là nhân lành, bởi vì ông đã hành động yêu thương đối với người bị bọn cướp đánh nhừ tử, nửa sống nửa chết. Hơn thế nữa, ông chính là người anh em, người thân cận của nạn nhân bị đánh nửa sống nửa chết. Đó chính là câu trả lời của Chúa Giêsu dành cho nhà thông luật, vì ông ta đã hỏi Ngài: Ai là người thân cận của tôi? Còn thầy tư tế, lêvi mặc dù đi ngang qua, thấy nạn nhân, nhưng họ đều tránh đi đường khác, vì họ sợ bị liên lụy hay nói đúng hơn là họ không có lòng thương xót.
Thưa anh chị em, ngày hôm nay, tình trạng giống như thầy tư tế và lêvi thì thiếu gì trong xã hội chúng ta đang sống? Đúng là như vậy, không thiếu, mà còn nhiều nữa là đàng khác. Ngay trong gia đình thôi, nạn bạo hành đang là vấn đề nhức nhối của xã hội ngày hôm nay. Bạo lực gia đình là vấn nạn của xã hội, gây nhức nhối cho nhân loại, để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng cho con người, nhất là đối với phụ nữ và trẻ em.
Nạn bạo hành gia đình không chỉ ở ngoài xã hội đương đại, mà nó còn len lỏi vào trong các gia đình công giáo của chúng ta. Có biết bao nhiêu người chồng công giáo, nhưng họ sống như người không có đức tin: cũng phủ phu, độc ác, đánh ghen vợ con, lún sâu vào các tệ nạn xã hội làm cho gia đình tan nát, chia ly. Một điều chớ chêu nhất ở đây, đó là các thành viên trong gia đình đều là những người “thân cận” của nhau, nhưng họ lại biến nhau thành kẻ thù: cha con, mẹ con, anh chị em ruột thịt lôi nhau ra tòa kiện tụng nhau, tranh chấp nhau từng cm đất, từng đồng xu. Thậm chí vợ chồng còn hơn cả người thân cận, đó là đã được Thiên Chúa kết hợp thành một xương một thịt rồi, họ không còn là hai nữa, nhưng chỉ là một thôi, ấy thế mà cả hai đều biến nhau thành kẻ thù không đội trời chung. Ngày nay, ly hôn đã trở thành một tệ nạn xã hội. Nó thường xảy ra khắp mọi nơi, khắp hang cùng ngõ hẻm, không phân biệt tôn giáo hay không tôn giáo. Ngoài ra còn bạo lực học đường đang diễn ra phức tạp, khiến các nhà chức trách phải đau đầu, chưa biết cách phải giải quyết thế nào cho êm thoả. Bởi vì đâu đó khắp nơi xảy ra nạn bạo lực học đường, từ mầm non cho đến đại học. Ngày 20/06/2025, trả lời chất vấn trước Quốc hội, Bộ trưởng GD-ĐT Nguyễn kim Sơn cho biết, theo thống kê, có đến 70% học sinh có hành vi bạo lực đối với người khác đều có hoàn cảnh gia đình đặc biệt, hoặc bố mẹ ly hôn, hoặc chứng kiến bạo lực gia đình, hoặc bản thân các em bị bạo lực gia đình.
Thế nhưng nguyên nhân nào dẫn con người đến tình trạng khốn đốn đó? Thưa tất cả đều không có lòng thương xót, sống thiếu tình người, thiếu tình anh em, thiếu tình bạn bè, thiếu tình hàng xóm láng giềng. Tất cả là thiếu lòng quảng đại hay nói đúng hơn là không có lòng quảng đại, không có lòng thương xót, cho nên người ta không thể tha thứ cho nhau. Và điều quan trọng nhất ở đây, đó là người ta không trung thành tuân giữ các giới răn của Chúa, thực thi giáo huấn của Hội thánh, đời sống đức tin khô khan, nguội lạnh.
Vì thế, người Samaritano nhân lành chính là mẫu gương cho mọi người chúng ta noi theo bắt chước. Nhưng muốn noi theo bắt chước, thì chúng ta cầng phải tập sống nhân đức thương người. Bởi vì muốn có nhân đức thì phải tập luyện. Ngay từ khi con cái còn nhỏ, chúng ta đã phải tập cho chúng biết sống thương người, sống quảng đại cho đi, cảm thông và chia sẻ. Noi gương người Samaritano, chúng ta hãy ra đi và làm như vậy, thay vì cứ ngồi đó mà hỏi : “Ai là người thân cận của tôi?”
Rev. Micae Trịnh Ngọc Tứ
Tổng Đại Diện Giáo Phận Thanh Hoá