Suy Niệm Chúa Nhật XIV Thường Niên Năm C

Suy Niệm Chúa Nhật XIV thường niên

“Niềm vui” trong cuộc sống là điều ai trong chúng ta cũng mong ước, và nó cũng đồng nghĩa với hạnh phúc. Con người dù giàu hay nghèo, cũng muốn sống vui vẻ. Niềm vui không thể mua bằng tiền bạc hay những mưu mô tính toán. Niềm vui đích thực là niềm vui trong tâm hồn. Người có niềm vui đích thực, kể cả lúc ốm đau hoạn nạn hay gian nan thử thách, vẫn cảm nhận được tâm hồn thư thái an bình. Phụng vụ hôm nay muốn hướng chúng ta đến với niềm vui diệu kỳ ấy.

Trước hết, đó là niềm vui được Thiên Chúa tha thứ. Mỗi chúng ta đều là tội nhân, dù ở bậc sống nào. Bởi lẽ xung quanh chúng ta là những cảm dỗ vây bủa, ranh giới giữa “tội” và phúc”, “tốt” và “xấu” vô cùng mong manh. Ki-tô hữu tin rằng, những ai phạm tội mà thành tâm sám hối thì được Chúa tha thứ. Thánh Gio-an tông đồ đã viết như sau: “Nếu chúng ta nói rằng mình không có tội, thì chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta. Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính, sẽ tha tội cho chúng ta, và sẽ thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính” (1Ga 1,8-9). Bài đọc I trích từ sách ngôn sứ I-sa-i-a đã diễn tả niềm vui của dân Do Thái trong tương lai. Giữa cảnh lưu đày, vị ngôn sứ loan báo sẽ có ngày Thiên Chúa can thiệp và giải phóng dân Ngài. Ngày ấy, đau khổ sẽ chấm dứt. Cảnh tha hương sẽ chẳng còn. Niềm vui ấy được diễn tả với những hình ảnh sinh động: “Này Ta sẽ tuôn đổ xuống Thành Đô, ơn thái bình tựa dòng sông cả, và Ta khiến của cải chư dân, chảy về tràn lan như thác vỡ bờ… như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy”. Thiên Chúa giải phóng dân Người, tức là Thiên Chúa chấp nhận tinh thần sám hối và tha thứ cho họ. Bởi lẽ, dưới cái nhìn của các ngôn sứ, sự kiện dân bị lưu đày gần 50 năm tại Ba-by-lon chính là một “liều thuốc đắng” để dân tỉnh ngộ và từ bỏ tội lỗi. Khi một tội nhân được ơn tha thứ, tâm hồn họ thanh thản an vui, như trút được gánh nặng, như được giải phóng khỏi cảnh lưu đày. Chúng ta hãy vui lên, vì Thiên Chúa nhân hậu từ bi và sẵn sàng tha thứ tội lỗi của chúng ta.

Ki-tô hữu còn hân hoan vui mừng vì được thuộc về dân của Thiên Chúa, dân được cứu chuộc nhờ máu của Đức Giê-su. Thánh Phao-lô đã diễn tả niềm hãnh diện của ngài. Niềm hãnh diện này không giống với lối suy nghĩ thông thường, nhưng rất khác lạ: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta!”. Thập giá là biểu tượng của đau khổ và hận thù. Thập giá cũng nhắc chúng ta về tình yêu vô bờ của Thiên Chúa qua Đức Giê-su. Nhờ cái chết và sự phục sinh của Đức Giê-su mà tín hữu trở nên thụ tạo mới, là nghĩa tử của Thiên Chúa. Những lo lắng đời thường dễ bóp nghẹt niềm vui của chúng ta. Nhiều Ki-tô hữu không thực sự cảm nhận được niềm vui thuộc về Đức Ki-tô và Giáo Hội của Người. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã viết: “Có những Ki-tô hữu sống đời mình giống như chỉ có mùa Chay mà không có mùa Phục Sinh. Đương nhiên tôi hiểu rằng niềm vui ấy không phải lúc nào trong cuộc đời cũng được biểu lộ giống nhau, nhất là trong những lúc hết sức khó khăn. Niềm vui tự thích ứng và thay đổi, nhưng nó luôn luôn tồn tại, dù chỉ như một ngọn đèn leo lét phát sinh từ niềm tin chắc chắn  của chúng ta rằng, bất luận thế nào, chúng ta được thương yêu vô bờ” (Tông huấn Niềm vui của Tin Mừng, số 6). Vâng, vẫn còn đó những nỗi âu lo trăn trở trong cuộc sống đời thường, nhưng tín hữu được mời gọi nhận ra tình thương của Thiên Chúa, phó thác nơi Ngài để Ngài soi sáng cho mình một hướng đi. Chúng ta hãy hãnh diện vì được làm con Thiên Chúa và được tháp nhập vào thân thể huyền nhiệm của Đức Ki-tô, tức là Giáo Hội của Người.

Niềm vui càng lớn lao hơn khi nó được chia sẻ. Tình yêu đích thực chỉ đạt được khi bản thân mình mong muốn và đem lại hạnh phúc cho người khác. Ki-tô hữu có sứ mạng chia sẻ niềm vui Tin Mừng với những người xung quanh. Chúa Giê-su chọn và sai bảy mươi hai môn đệ, với những lời dặn dò kỹ lưỡng. Điều cốt yếu đối với các nhà thừa sai, không phải là những nhu cầu vật chất, mà là làm sao để sứ điệp được loan báo và được đón nhận. Các môn đệ đã thực sự cảm nhận được hạnh phúc, khi thấy nhờ lời họ rao giảng mà quyền lực ma quỷ bị đẩy lui. Tuy vậy, niềm vui đích thực của người tông đồ không ở việc đưa nhiều người về với Chúa hay tiêu trừ được nhiều ma quỷ, mà là tên của họ đã được khắc ghi trên trời, trong trái tim của Thiên Chúa. Bất kỳ hoàn cảnh nào, kể cả lúc bị xua đuổi, người môn đệ vẫn nỗ lực đem bình an đến cho những người mình gặp gỡ.

Loan báo Tin Mừng là bản chất của Giáo Hội và là sứ mạng của mọi Ki-tô hữu. Tiếc rằng, nhiều tín hữu chưa ý thức được điều này. Biết bao phong trào truyền giáo; biết bao lời kêu gọi và chương trình của Giáo Hội, hoàn vũ cũng như địa phương, nhưng kết quả truyền giáo vẫn còn hết sức khiêm tốn. Phải chăng chúng ta, tôi cũng như quý vị chưa thực sự có được “lửa truyền giáo” nơi tâm hồn và trong hành động hằng ngày? Xin Chúa ban ân sủng và phù giúp chúng ta. A-men.

+TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

(Lc 10, 1-12. 17-20)

Thiên Chúa là Đấng an ủi và mời gọi chúng sống niềm vui cứu độ và sai chúng ta mang niềm vui ấy cho thế giới đang đói khát sự bình an và hy vọng.

Niềm vui an ủi

Trong bối cảnh lịch sử, dân Israel vừa trở về sau cuộc lưu đày ở Babylon, mang trong mình những vết thương. Thiên Chúa dùng hình ảnh người mẹ để an ủi vỗ về dân Israel : “Hãy vui mừng với Giêrusalem” (Is 66,10), như người mẹ hiền ẵm con vào lòng. “Ta sẽ vỗ về các ngươi như người mẹ nâng niu con” (Is 66, 13). Qua đó, chúng ta hiểu được tấm lòng của Thiên Chúa đối với nhân loại: Ngài không bao giờ bỏ rơi dân Ngài. Dù có trải qua thử thách, đau khổ, Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương, an ủi, và ban lại bình an. Đây chính là nền tảng cho sứ mạng truyền giáo.

Thập giá 

Thập giá, vốn là biểu tượng của khổ đau và ô nhục, nhưng qua cái chết và sự phục sinh của Chúa Giê-su, lại trở thành nguồn ơn cứu độ và là niềm vinh dự của Ki-tô hữu.

Thánh Phao-lô nhấn mạnh rằng: Người mang danh Ki-tô hữu không được tự hào vì lề luật, thành tích hay công trạng cá nhân, mà vì được liên kết với Đức Ki-tô chịu đóng đinh. Đây là một cuộc “tái tạo” – nhờ thập giá, người môn đệ được biến đổi, trở nên tạo vật mới.

Điều này giúp chúng ta ý thức rằng: Truyền giáo không phải là đi rao giảng một triết lý đạo đức, mà là loan báo Đức Ki-tô chịu đóng đinh và phục sinh.

Nguyện cầu

Thật ý nghĩa, khi lời Chúa Giê-su nói với các môn đệ: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người. Các con hãy đi. ” (Lc 10,2). Thôi thúc chúng ta, những người đã chịu phép rửa tội. Lời thánh ca do Mai Nguyên Vũ sáng tác, chúng ta hát nhiều lần trong đời, hát với vẻ hăng say. Hát đấy, nhưng chúng ta có mường tượng ra rằng, chính chúng ta phải dấn thân không? “Hãy ra đi rao giảng Tin Mừng, bước hiên ngang trên đường truyền giáo. Kìa đồng lúa chín ngát trời, triệu nhành đong đưa vẫy mời, sóng lúa vàng dạt dào mơ ước.

Nhìn cánh đồng truyền giáo thật bát ngát bao la, Chúa đang cần thợ gặt, nhưng không dễ để mà có. Vì khó nên Chúa mới nài nỉ chúng ta xin Chúa Cha, tức là cầu nguyện: “Hãy xin Cha sai nhiều Tông Đồ, biết hăng say đi mở nước Chúa.”

Chúng ta đừng quên rằng: Cầu nguyện là hành động truyền giáo đầu tiên. Các người thợ đã không được chọn qua các chiến dịch quảng cáo hay kêu gọi phục vụ quảng đại, nhưng được Thiên Chúa “chọn” và “sai đi“. Chính Chúa tuyển chọn và sai đi, chính Chúa ban sứ mệnh. Vì thế cầu nguyện thật quan trọng. Ðức cố Giáo hoàng Bê-nê-đic-tô XVI đã lập lại với chúng ta rằng: “Giáo Hội không phải của chúng ta, mà là của Thiên Chúa. Biết bao lần chúng ta, những người được thánh hiến, chúng ra nghĩ rằng nó là của chúng ta“. Ngài khẳng định như thế với các Hồng Y đoàn khi thoái vị: Giáo Hội không phải của anh em, mà là của Thiên Chúa; Chúa có cách làm của Chúa.” (Diễn văn cuối cùng với Hồng Y đoàn).

Như thế, sứ mệnh truyền giáo là ơn thánh, nên “việc truyền giáo phải làm trên đầu gối”, tức là quỳ xuống mà cầu nguyện. Nhạc sĩ Mai Nguyên Vũ sáng tác cũng rất tinh tế về ca từ dựa trên Lời Chúa giúp chúng ta cầu nguyện: Nguyện Chúa ghé mắt đến Giáo Hội dấu ái, nguyện Chúa giáng phúc xuống cho vị Cha chung. Nguyện Chúa thánh hóa các linh mục khắp chốn, dẫn dắt đám chiên lạc muôn phương về một đàn chiên duy nhất.

Thiên Chúa luôn mời gọi con người cộng tác trực tiếp vào sứ mệnh của Người. Sứ điệp sai đi của Chúa Giê-su vẫn còn rất thời sự với chúng ta. Chủ đề cho Ngày Truyền Giáo Thế Giới năm 2025 là: “Mang hy vọng trong một thế giới khủng hoảng“. Đức cố Giáo hoàng Phan-xi-cô mời gọi chúng ta: “Tôi khuyến khích tất cả anh chị em, từ trẻ em, thanh thiếu niên, người lớn cho đến người cao tuổi, tích cực tham gia vào sứ mạng loan báo Tin Mừng chung, qua chứng tá đời sống, qua lời cầu nguyện, những hy sinh và lòng quảng đại của anh chị em.” (trích Sứ điệp truyền giáo năm 2025).

Trong xã hội ngày nay, “thuộc về Giáo hội không bao giờ là một thực tại đạt được một lần cho mãi mãi“. Vì thế, công cuộc truyền giáo đòi hỏi một sự kết hợp giữa cầu nguyện và hành động. Cầu nguyện là hành động truyền giáo đầu tiên, và là sức mạnh đầu tiên của niềm hy vọng. Hãy để cho lòng mình bừng cháy lên ngọn lửa hy vọng và nhanh chân tiến bước đi loan báo Tin Mừng. Hãy cộng tác phần mình bằng lời cầu nguyện và hoạt động, bằng vật chất, bằng chứng tá cá nhân của mỗii người.

Lạy Chúa, này con đây, xin sai con đi.

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

LOAN BÁO – LÀM CHỨNG VÀ NGUYỆN CẦU

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT XIV NĂM – NĂM C

(Lc 10, 1-12. 17-20)

Loan báo tin vui

Sứ mệnh của Giáo Hội là rao truyền Tin Mừng và niềm vui an ủi. Bài đọc I trích từ sách ngôn sứ Isaia nói tới niềm vui của sự an ủi. Ngôn sứ nói với một dân tộc đã trải qua một thời kỳ đen tối của kiếp lưu đầy, bị thử thách cam go, nhưng giờ đây đã tới thời ủi an cho Giêrusalem; sự buồn sầu và nỗi sợ hãi phải nhường chỗ cho niềm vui (Is 66,10). Lý do là vì Chúa sẽ đổ tràn đầy trên Thành Thánh và dân cư của nó một “thác” của sự ủi an, tràn đầy ủi an, mốt thác của hiền dịu mẫu tử: “Các ngươi sẽ được bồng ẵm trên tay và được vuốt ve trên đầu gối. Như bà mẹ để con thơ trên đầu gối và vuốt ve nó, Thiên Chúa cũng sẽ làm như vậy với chúng ta” (Is 66,12-13).

Làm chứng

Trong thư gửi tín hữu Galát, thánh Phaolô khẳng định rằng: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng ta!” (Gl 6,14). Và thánh nhân nói tới các dấu tích, nghĩa là các vết thương của Chúa Giêsu bị đóng đanh như là dấu ấn đặc biệt trong cuộc sống của người là Tông Ðồ của Tin Mừng. Trong sứ vụ của mình thánh Phaolô đã sống kinh nghiệm khổ đau, yếu đuối và thất bại, nhưng cũng sống kinh nghiệm niềm vui và sự an ủi. Ðây là mầu nhiệm vượt qua của Chúa Giêsu: mầu chiệm của cái chết và sự sống lại. Chính việc để cho mình trở nên đồng hình dạng với cái chết của Chúa Giêsu khiến cho thánh Phaolô đã tham dự vào sự phục sinh và chiến thắng của Chúa mà Phaolô đã làm chứng.

Ngày 06/01/2022, Đức Thánh Cha đã công bố Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền giáo năm 2022 với chủ đề: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy” (Cv 1,8). Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các Kitô hữu loan báo sứ điệp cứu độ của Chúa Kitô trong mọi chiều kích của đời sống hàng ngày của chúng ta.

Đức Thánh Cha nói tiếp: “Loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn là sứ mạng của Ðức Giêsu. Ðây cũng chính là sứ mạng của Giáo hội và của tất cả những ai đã lãnh nhận Phép Rửa trong Giáo hội…Là một Kitô hữu cũng chính là một nhà truyền giáo. Rao giảng Tin Mừng bằng lời nói, mà trước hết là bằng chính đời sống, là mục đích chính yếu mọi thành phần dân Chúa, cần phải đến gần với người nghèo, phục vụ họ, và thực hiện tất cả những điều này trong danh Ðức Kitô với Thần Khí của Ðức Kitô, vì Người chính là Tin Mừng của Thiên Chúa” (x. Sứ điệp truyền giáo 2022).

Mọi Kitô hữu được mời gọi trở thành một nhà truyền giáo và làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta thực hiện sứ vụ truyền giáo trong Giáo hội, vì được Giáo hội sai đi nhân danh Chúa Kitô loan báo Tin Mừng “cho đến tận cùng trái đất“. Chúng ta cũng nhận được sức mạnh từ Chúa Thánh Thần và được Thánh Thần hướng dẫn để làm chứng đầy đủ và chân thực cho Chúa Kitô là Chúa đã đến trong thế gian. Vì thế, khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi, không có động lực hoặc bối rối, chúng ta hãy cầu nguyện.

Cầu nguyện

Tin Mừng hôn nay mô thuật lại Chúa Giêsu sai nhóm 72 môn đệ đi loan báo Tin Mừng. Con số 72 được Sách Sáng Thế mô tả muốn nói tới các dân tộc khác nhau (x. St 10, 1-13). Nên khi Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít” (x. Lc 10,2), Người vạch ra một viễn tượng và đề nghị chúng ta cầu nguyện, tức là xin chủ mùa gặt sai thợ mang gặt lúa về (x. Lc 10,2). Đây là yếu tố để đảm bảo cho sứ mạng loan báo Tin Mừng. Chúa Giêsu đã không muốn hành động một mình. Người đến trong thế giới là để đem tình yêu thương của Thiên Chúa đến cho con người và muốn phổ biến nó với kiểu cách của sự hiệp thông, của tình huynh đệ. Vì thế Người thành lập ngay một cộng đoàn môn đệ, một cộng đoàn truyền giáo với mục đích cấp bách là loan báo Tin Mừng.

Các người thợ đã không được chọn qua các chiến dịch quảng cáo hay kêu gọi phục vụ quảng đại, nhưng được Thiên Chúa “chọn” và “sai đi”. Chính Người tuyển chọn, chính Người sai đi, chính Người ban sứ mệnh. Vì thế cầu nguyện quan trọng. Đức nguyên Giáo hoàng Benedicto XVI đã ngỏ lời với Hồng Y đoàn vào ngày ngài thoái vị rằng: “Giáo Hội không phải của chúng ta, mà là của Thiên Chúa. Biết bao lần chúng ta, những người được thánh hiến, chúng ra nghĩ rằng nó là của chúng ta, phải không? Chúng ta làm… cái gì đến trong trí… Nhưng mà Giáo Hội không phải của chúng ta, mà là của Thiên Chúa; cánh đồng trồng tỉa là của Người“.

Như thế sứ mệnh truyền giáo là ơn thánh. Và nếu việc tông đồ là hoa trái của lời cầu nguyện, thì nó sẽ tìm thấy trong đó sức mạnh cho hoạt động của nó. Thật thế, sứ mệnh của chúng ta không phong phú, còn hơn thế nữa tắt lịm, chính trong lúc chúng ta ngưng việc kết nối với suối nguồn là chính Chúa. Đức Benedicto XVI nói rõ: “việc truyền giáo phải làm trên đầu gối”. Vì thế, cầu nguyện là cần thiết. Chúng ta phải tay chắp gối quì mà xin ơn truyền giáo.

Các con hãy đi“. Lời Chúa Giêsu ngày hôm nay vẫn còn rất cấp bách. Xin cho con người hôm nay mau mắn đáp lại sự sai đi của Chúa. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Suy niệm:

1. Đức Giêsu đã ghi nhận: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”. Tuy nhiên, Người lại mời các môn đệ cầu xin chủ mùa gặt gửi thợ đến. Như thế, Ngài nhắc các ông nhớ rằng Thiên Chúa là Chúa của dân chúng và tất cả những gì liên hệ đến dân chúng thì đều ở dưới quyền chúa tể của Thiên Chúa. Ai muốn thật sự giúp đỡ dân chúng, thì không thể tự mình đi theo sáng kiến riêng và nhân danh mình, nhưng phải được chủ mùa gặt sai đi.

2. Chính Đức Giêsu đã sai các môn đệ đi. Người xử sự như là chủ mùa gặt. Thật ra Người làm nhân danh Thiên Chúa và làm vì lòng từ bi thương xót đối với dân. Các môn đệ ra đi phải chu toàn sứ mạng theo chiều hướng này.

3. Hành lý các môn đệ mang theo chẳng có gì, ngoài sứ điệp phải truyền đạt. Các ông không là gì khác ngoài tư cách sứ giả của sứ điệp này và các ông không mang theo gì ngoài sứ điệp này. Rõ ràng các ông cần một hành trang và một nơi cư ngụ. Tuy nhiên, các ông không được đòi hỏi gì và bận tâm gì cả. Các ông chỉ phải hoàn toàn quan tâm đến sứ điệp của các ông mà thôi. Một đòi hỏi phải nghèo khó, khiêm nhường và chấp nhận yếu đuối như thế, thì ngược lại với cám dỗ muốn đạt hiệu năng bằng mọi giá.

4. Việc loan báo Tin Mừng không thể là chuyện của một cá nhân riêng lẻ mà là việc của một cộng đoàn, cho dù ở dạng phôi thai. Không người môn đệ nào có thể tự cho rằng mình có sứ điệp Kitô giáo và có thể phản ảnh được hết sự phong phú của sứ điệp. Chính là trong đối thoại mà tôi sẽ nói về một vị Thiên Chúa đã chấp nhận đối thoại với loài người cho đến độ trở thành một người trong loài người.

5. Chúng ta không phải là những người bảo thủ. Chúng ta cảm phục những lời dạy bảo của Đức Giêsu khi đi đường với hành lý gọn nhẹ; Người dạy phải tin tưởng vào Người và tin tưởng sứ điệp mà chúng ta mang theo. Tuy nhiên, có những nơi và những tình huống đòi buộc, thì chúng ta phải dùng đến những nguồn vật chất để cung cấp cho những nhu cầu thể lý của người dân. Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ chúng ta cả thân xác lẫn linh hồn. Vì vậy, các Kitô hữu phải gây quỹ để xây dựng bệnh viện, trại mồ côi, trường học, nhà cửa cho những ai lâm cảnh khốn khó.

Có những Kitô hữu gương mẫu đã thực hiện những công việc tốt lành này, trong số đó, có những người được phong thánh, có những người được biết đến như là những người tốt lành và là những người yêu thương kẻ bần cùng. Họ có thể giỏi với gạch vữa. Nhưng trong tim, họ không đặt tin tưởng vào “túi tiền”“bao bị” hay “giày dép”, nhưng họ đặt tin tưởng vào Đấng đã sai họ đi với những lời, “Hãy ra đi…”. Nhiều người đã đối diện với “những con sói” tham mồi, tham vọng và uy quyền đang chống lại họ. Họ đã vượt qua những thế lực tiêu cực này, không phải bằng việc đọ súng với nhau, nhưng vượt qua bằng cách nhớ lại Đức Giêsu đã nói rằng họ sẽ có Thánh Thần cùng đồng hành (Siciliano).

Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

1. Cánh đồng lúa chín Sichar

Đức Giêsu đã ra đi rao giảng Tin mừng về Nước Thiên Chúa. Ngài nhận thấy dân chúng muốn được nghe rao giảng Tin mừng. Có những người quên ăn quên ngủ đi theo Chúa để được nghe Ngài giảng, đến nỗi thấy họ đói, Ngài đã làm cho bánh hoá nhiều hai lần để nuôi sống họ. Ngài thấy cánh đồng truyền giáo còn rộng rãi bao la bát ngát trải rộng ra trước mắt Ngài. Cánh đồng lúa chín là mối ưu tư hàng đầu của Ngài, nên khi đi qua cánh đồng lúa chín Sichar, đúng là tức cảnh sinh tình, Ngài đã bộc lộ tâm tư với các môn đệ: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt đến gặt lúa của Người” (Lc 10, 2).

2. Cánh đồng truyền giáo hôm nay

Chúng ta nhận thấy trên thế giới hôm nay có gần 7 tỷ người, nhưng mới có 1, 2 tỷ người biết Chúa. Tại Á châu, trong số 3, 5 tỷ người mới chỉ có 100 triệu tín hữu Công giáo, tính theo tỷ lệ là 2, 6%. Như vậy, cứ 100 cánh đồng lúa chín, mới có 2, 6 cánh đồng có thợ gặt, còn 97, 4 cánh đồng bị bỏ hoang. Chưa kể toàn bộ cánh đồng đã bị bỏ hoang mãi cho đến thế kỷ 16 mới có thợ gặt. Đặc biệt thánh Phanxicô Xaviê không chỉ là thợ gặt mà là máy gặt.

Riêng tại Việt Nam chúng ta, dân số hiện nay lên tới 93 triệu, mà số người Công giáo mới tới 7 triệu, tính ra mới được 7%, còn lại 93% kia thì sao? Cánh đồng truyền giáo của chúng ta vẫn còn trải ra trước mắt.

Vì thế, trước tình trạng khẩn cấp ngày nay, Thượng Hội đồng Giám Mục Á châu đã được tổ chức tại Rôma, từ ngày 19/4 đến 15/5/1998, gồm có 158 vị đại diện hàng Giám mục Á châu và một số Giám mục đại diện các châu lục khác, cùng với một số chuyên viên, tất cả 230 vị dưới quyền hướng dẫn của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II để bàn về vấn đề truyền giáo của Á châu ngày nay.

3. Đức Giêsu sai các môn đệ đi truyền giáo

Chỉ có Luca tường thuật việc Đức Giêsu chọn 72 môn đệ và sai đi trước “đến các thành và các nơi mà chính Ngài sẽ tới”. Con số 72 hay 70 (tuỳ theo thủ bản Hy lạp hay Hy bá) có liên hệ với con số 72 dân tộc làm nên nhân loại theo bản thống kê dân số của Kinh thánh sau cơn đại hồng thuỷ (St 10, 10).

Theo các giáo phụ của Giáo hội Công giáo, số 72 là con số có tính cách biểu tượng của các dân tộc và quốc gia trên thế giới vào thời Đức Giêsu sinh sống.

H. Cousin giải thích thêm: Bảy mươi hai ông thực ra không phải chỉ là những giao liên tiền trạm, nhưng họ chính là những đại sứ đặc mệnh toàn quyền, giống như nhóm Mười Hai, có quyền lực trên các thần dữ (9, 17) và có trách nhiệm công bố Nước Thiên Chúa (10, 11). Như thế tác giả muốn xác định rằng không chỉ có Mười Hai ông mới được chính thức được Đức Giêsu bổ nhiệm đi truyền giáo trước lễ Vượt qua. Nhưng khi Đấng Phục sinh hiện ra, thì cả Nhóm Mười Một với những người đồng hành sẽ là những người được Chúa trao cho sứ mạng truyền giáo (Fiches dominicales C, tr 239).

II- TƯ CÁCH CỦA NHÀ TRUYỀN GIÁO

1. Tinh thần hiệp thông

Đức Giêsu sai “Cứ từng hai người” đi trước Ngài vì họ phải hoạt động với tư cách chứng nhân. Theo truyền thống Kinh thánh, người ta không được đặt tin tưởng vào lời xác quyết của một người duy nhất, mà cần phải có lời của hai hoặc ba nhân chứng.

H. Cousin quả quyết: “Con số hai không do ngẫu nhiên, bởi vì khi có tranh cãi (Đnl 19, 15), câu nói đáng tin phải dựa trên lời của hai hoặc ba nhân chứng, trường hợp giả dụ được nói đến ở câu 10-11. Trong sách Công vụ Tông đồ, Luca sẽ minh hoạ công việc truyền giáo của “từng cặp”, như Phaolô và Barnabê (13, 2-4), Barnabê và Marcô, Phaolô và Sila (15, 39-40) (Fiches dominicales C, tr 240).

2. Tinh thần chịu đựng

Đức Giêsu nhắn nhủ các môn đệ: “Thầy sai các con đi như chiên con đi giữa bầy sói” (Lc 10, 3). Các con hãy ra đi! Đây là một lệnh truyền. Ngài không che giấu sự khó khăn trong việc truyền giáo. Sự khó khăn này do kẻ thù của Nước trời gây ra. Các ông sẽ bị bắt bớ bởi đó là số phận của những kẻ được gọi để rao giảng Nước trời. Đứng trước những khó khăn, các môn đệ như con chiên giữa sói rừng. Con chiên thì hiền lành. Vì thế các môn đệ phải có lòng khoan dung, nhân hậu và yêu thương thù địch, chứ không thù oán như thái độ của Giacôbê và Gioan đối với người Samaria (Lc 9, 54).

3. Tinh thần siêu thoát

Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép...”. Đức Giêsu đòi các môn đệ phải có tinh thần siêu thoát đối với của cải vật chất. Nói rõ ra, Ngài đòi các môn đệ phải sống khó nghèo thực sự, vì khó nghèo là điều kiện để được vào Nước trời (Lc 6, 20). Không nên ỷ vào các phương tiện của con người. Đức Giêsu đã không sử dụng võ khí của quyền lực, của giàu sang, lộng lẫy, huy hoàng... Do đó, yêu sách đầu tiên của Giáo hội là theo gương của Thầy mình là trở nên khó nghèo.

4. Tinh thần nhanh nhẹ

Đừng chào hỏi ai dọc đường”

Đây không phải là một lệnh về sự vô lễ, nhưng là một sứ mệnh khẩn cấp không được trì hoãn. Giống như xưa kia người đầy tớ của tiên tri Êlisê trong sách các Vua (2V 4, 29), các sứ giả được lệnh lên đường đừng mất nhiều thì giờ trong việc chào hỏi dài dòng của người phương Đông.

Lời khuyên nhủ này có ý nhắc nhở các môn đệ hãy tránh xa những chuyện vô ích thường thấy trong xã hội Cận đông thời Đức Giêsu. Người môn đệ đi truyền giáo đừng chia trí nhưng dồn nỗ lực vào việc rao giảng Nước Trời là điều cấp bách.

5. Tinh thần kiên nhẫn

Vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón”

Đức Giêsu đã có kinh nghiệm về vấn đề này. Ngài đã phải đối diện với những thất bại, những sự khước từ, chống đối, không tin. Do đó, Ngài muốn truyền cho các môn đệ kinh nghiệm đó, để các ông đừng ngạc nhiên, đừng thất vọng. Nhưng các ông hãy tin chắc rằng, dù các ông có muốn hay không, một ngày kia, Thiên Chúa sẽ hiển trị, Nước Thiên Chúa sẽ phổ biến khắp nơi.

Tuy nhiên, về phía các ông, trong thời gian rao giảng Tin mừng, các ông sẽ gặp phải sự chống đối và khước từ. Các ông hãy nhẫn nhục chịu đựng, đừng nổi nóng lên như trường hợp ông Giacôbê và Gioan muốn xin lửa trên trời xuống đốt cháy dân làng Samaria đã dám từ chối không tiếp nhận Đức Giêsu và các ông. Sau cùng, những thất bại cấp thời của các ông vẫn góp phần vào việc làm thành một thành công lớn: Nước Chúa sẽ hiển trị. Đừng sợ thất bại vì ngạn ngữ Pháp và Nguyễn Thái Học có nói: “Thất bại là mẹ thành công”.

III- ƠN GỌI RA ĐI TRUYỀN GIÁO

1. Sứ mạng truyền giáo của mọi người

Khi xuống thế làm người, một phần nào đó, Đức Giêsu bị hạn chế trong không gian và thời gian, nhưng quyền năng của một Ngôi Vị Thiên Chúa nơi Ngài đâu có bị giảm sút. Thế mà, thay vì sống trăm tuổi hay trường thọ hơn nữa, để có đủ thời giờ rao giảng Tin mừng cứu độ muôn dân, thì Ngài lại chỉ sống có 33 năm và dành vỏn vẹn có 3 năm để đi giảng đạo. Thêm vào đó, Ngài còn nhờ đến mấy ông quê mùa, dốt nát phụ giúp công việc truyền đạo khi chọn 12 Tông đồ và 72 môn đệ. Kết quả là sau 20 thế kỷ, nhân loại nay đã gần 7 tỷ người mà chỉ có một tỷ hai Kitô hữu. Tại sao Chúa không dùng quyền phép bắt nhân loại theo đạo cả mà phải nhờ đến con người phụ giúp và còn dạy phải xin Chúa Cha sai thêm thợ gặt truyền giáo?

Lý do là vì Chúa muốn mọi tín hữu phải thâm tín rằng việc rao giảng Tin mừng, mở rộng Nước Chúa là công việc của con người, chứ không phải để mặc Chúa lo toan, định liệu cả. Vì thế, Khi Đức Giêsu bảo chúng ta xin Chúa Cha sai thêm thợ gặt, điều đó chứng tỏ Chúa muốn trao cho chúng ta trách nhiệm là phải lo lấy phần rỗi của mình và của anh em nữa.

Ngay khi lãnh Bí tích Rửa tội, người Kitô hữu đã được Chúa Cứu Thế kêu mời tham gia vào sứ mạng truyền giáo. Trong hiến chế tín lý Lumen Gentium, công đồng Vatican II nhấn mạnh rằng ơn gọi nên thánh phổ quát bao gồm trong lời mời gọi mọi người tiến đến sự trọn hảo của lòng bác ái. Sự nên thánh và sứ mạng truyền giáo là những khía cạnh bất khả phân ly của ơn gọi dành cho mọi người đã chịu phép rửa tội. Cam kết trở nên thánh thiện hơn được liên kết chặt chẽ với sứ mạng truyền bá thông điệp cứu độ.

Trong thông điệp Redemptoris Missio của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, đoạn 9, có nhắc lại rằng: “Mọi tín hữu được mời gọi đến với sự thánh thiện và sứ mạng truyền giáo”.

2. Việc Tông đồ giáo dân

Bảy mươi hai môn đệ còn là hình bóng của mọi tín hữu được kêu mời tham gia vào việc tông đồ của hàng Giáo phẩm. Đức Giêsu đã nói: “Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít”. Vậy thợ gặt là ai? Trước đây người ta thường dành danh xưng “thợ gặt” cho các linh mục, các tu sĩ nam nữ, các nhà truyền giáo. Đây là một nhầm lẫn. Không ai có thể trở thành Kitô hữu mà lại không cảm nghiệm nơi mình nỗi lo âu của Đức Giêsu trước cánh đồng lúa chín mênh mông. Những tác vụ đa dạng sẽ làm nảy sinh những hình thức hoạt động khác nhau nơi mỗi người, nhưng ai nấy theo cách của mình, đều được gọi và làm việc ở đồng lúa chín (L. Sintas).

Thánh Luca cho biết các cộng đoàn Kitô hữu được khai sinh ở giữa các đô thị và vùng đất của dân ngoại. Một số các nhà thờ địa phương ấy được khai sinh không phải do hoạt động của các Tông đồ được chính thức uỷ nhiệm, nhưng do hoạt động tông đồ của giáo dân, của các ông, các bà phải di chuyển vì nghề nghiệp và họ đã loan báo Đức Giêsu (Rm 16).

Giáo hội được xây dựng trên nền tảng Tông đồ thì đồng thời cũng dựa trên sức mạnh của từng viên gạch nối kết đó đây xuất hiện những Giáo hội địa phương giữa vùng đất “ngoại” do những người đàn ông đàn bà giáo dân gầy dựng. Giáo hội Triều Tiên chẳng hạn đã được khai lập đầu tiên không phải do các linh mục thừa sai mà do chính giáo dân bản xứ, như ngày xưa, tiếng gọi của một người Macédonia: “Hãy vượt biển, đến cùng chúng tôi” (Cv 16, 9) đã hấp dẫn Phaolô và là nguyên do của giáo đoàn.

Truyện: Chúa cần bàn tay bạn

Cuộc chiến tranh trên bán đảo Triều tiên trước đây là một cuộc chiến tranh tàn khốc. Một ngôi làng nhỏ rơi vào dưới làn đạn của trọng pháo. Trong làng, có một ngôi nhà thờ Công giáo, bên ngoài nhà thờ có một bệ cao, bên trên có đặt một bức tượng Đức Kitô. Tuy nhiên, khi cuộc chiến tranh qua, rồi bức tượng đã biến mất. Bức tượng đã bị hất ra khỏi bệ vỡ ra từng mảnh trên mặt đất.

Một hôm lính Mỹ đã giúp vị linh mục thu thập những mảnh vụn. Một cách cẩn thận, họ đã ráp lại pho tượng. Họ tìm thấy tất cả các mảnh vỡ, trừ đôi bàn tay. Họ đề nghị khi trở về Mỹ họ sẽ đặt làm đôi bàn tay ấy. Nhưng vị linh mục đã từ chối. Ngài nói:

- Tôi có một ý tưởng hay hơn: Chúng ta hãy để pho tượng không có bàn tay. Và chúng ta sẽ ghi vào chân đế lời này: BẠN ƠI, BẠN HÃY CHO TÔI MƯỢN ĐÔI BÀN TAY CỦA BẠN” (Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật B, tr 494).

3. Truyền giáo bằng sống niềm tin

Trong bí tích Rửa tội, linh mục hỏi người chịu phép rửa: - Hôm nay con xin gì cùng Hội thánh?

Người chịu phép thưa: - Thưa, con xin đức tin. Linh mục hỏi tiếp: - Đức tin sinh ơn ích gì cho con?

Người chịu phép thưa: - Thưa, đức tin đem lại cho con sự sống đời đời.

Như vậy, Thiên Chúa đã ban đức tin cho người chịu phép rửa tội, và một khi đã là một Kitô hữu thì phải có đức tin. Một Kitô hữu chỉ có đức tin thôi chưa đủ, còn phải sống đức tin nữa, nghĩa là phải thể hiện đức tin ấy trong cuộc sống hằng ngày. Chính vì thế, thánh Giacôbê đã quả quyết: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”.

Có người cho rằng sống đức tin Kitô giáo là biết “sống tử tế” với mọi người. Sống tử tế là sống thế nào cho xứng với danh hiệu là “Kitô hữu”, người được mang tên Chúa, được thuộc về Chúa. Một trong những cuốn phim gây nhiều chú ý nhất ở ngoại quốc trong thập niên 80 là phim “Chuyện tử tế” của đạo diễn Trần Văn Thuỷ. Cuốn phim này được hãng truyền hình Pháp S.R.K mua và được trình chiếu trong chương trình có tên “Đại dương”. Khi một ký giả ngoại quốc hỏi: “Những người Kitô Việt Nam có thể làm gì để giúp dân tộc họ sống tử tế”? Nhà đạo diễn đã trả lời: “Điều người ta mong đợi ở các người Kitô hữu Việt Nam là niềm tin của họ và họ phải sống điều họ tin”.

Lời phát biểu của nhà đạo diễn trên đây đáng để chúng ta suy nghĩ. Sống trong một dân tộc còn nhiều người chưa biết Chúa. Sống trong một đất nước còn nhiều khó khăn. Sống trong một xã hội còn nhiều giả dối, gian manh, lừa đảo, tiêu cực, thì đối với người Kitô, tin và sống niềm tin của mình là phải sống, phải tin thật tử tế, tức là tin và sống tình nhân loại, sống quảng đại, tóm lại là sống tình người với nhau. Tin và sống như thế không phải chỉ là cách sống dành cho các nữ tu, các linh mục mà cũng chính là sứ mạng và ơn gọi của mỗi Kitô hữu chúng ta (Lm. Phạm Văn Phượng, Chia sẻ Tin mừng, năm C, tr 161).

TruyệnĐức tin sống động

Felix Frankfurter là một quan tòa nổi tiếng của toà án tối cao của Hoa Kỳ. Một lần kia ông được đưa vào bệnh viện, ở đó ông quen biết một y tá có tên là Lucy. Họ có những lúc ngồi nói chuyện thân mật và ông biết nhiều điều về Lucy.

Trước đó, chưa bao giờ ông gặp được người nào có lòng quảng đại và nhân hậu như chị. Và ông bắt đầu tự hỏi và suy nghĩ, cố gắng khám phá suối nguồn của thái độ của chị. Điều ông khám phá như sau: Suối nguồn ấy không có gì là bí ẩn. Nó đơn giản, chỉ là sự áp dụng thực hành đức tin của chị.

Lucy không bao giờ biết đức tin sống động của chị có ảnh hưởng như thế nào, nhưng chị đã làm cho Đức Giêsu hiện diện cụ thể trong bệnh viện này. Chị đem đến đôi bàn tay mà Đức Giêsu cần đến. Chúa cần những nhân chứng cho người ta như chị Lucy đến nỗi Người có thể trở thành Đấng an ủi như Người muốn làm.

Một quan hệ thật sự với Đức Giêsu sẽ có một ảnh hưởng cả khi người có mối quan hệ ấy không đề cập đến Đức Giêsu. Dĩ nhiên, những người tin vào Đức Giêsu và yêu mến Người, cũng sẽ, khi thuận lợi, nói về Đức Giêsu một cách rõ ràng cởi mở (McCarthy).

4. Truyền giáo bằng đèn sáng và muối đất

Đức Giêsu đã gọi các môn đệ của Ngài là muối cho đời và ánh sáng cho thế gian (Mt 5, 13-14). Muối, ánh sáng và thành xây trên núi là những hình ảnh nói lên vai trò chứng tá của môn đệ Chúa trên trần gian.

Muối thì thấp hèn, âm thầm và khiêm tốn, nhưng muối có hai công dụng chính: ướp cho khỏi hư và làm gia vị. Người môn đệ phải giữ cho xã hội khỏi suy thoái, đồng thời giúp cho sự thăng tiến của xã hội. Người Kitô hữu mang danh nghĩa là con cái Thiên Chúa, phải hết sức bảo vệ và phát triển danh nghĩa ấy trong môi trường thế gian, nếu không làm như vậy, thì người Kitô hữu đã bị biến chất và trở nên vô dụng, vô tích sự.

Còn ánh sáng thì rực rỡ, huy hoàng. Ánh sáng soi cho người ta thấy rõ đường đi, nhận rõ các đồ vật. Người Kitô hữu là con cái sự sáng, phải dùng đời sống gương mẫu và chứng tá của mình để soi dẫn cho những người chung quanh biết đường về cùng Thiên Chúa. Việc toả sáng bằng đời sống gương sáng và chứng tích để lôi cuốn, phải được coi là bổn phận của người Kitô hữu vì “đèn thắp lên là để soi sáng cho mọi người trong nhà”

Là muối, là ánh sáng thế gian, hơn ai hết, Kitô hữu chúng ta cần phải thắp sáng lên niềm hy vọng bằng cuộc sống toả lan tình người. Dù chỉ là ngọn đèn mù mờ giữa biển khơi, chứng từ của một Kitô hữu vẫn luôn cần thiết cho cuộc sống.TruyệnẢnh hưởng của chứng từ

Ông Pi-tơ Bơ-rốt là một người ngoài công giáo, ông hằng ước ao chứng kiến đời sống thánh thiện của Giám mục Fénélon. Ngày kia ông đã liên lạc với vị Giám mục thời danh xin ngài cho ông tới thăm một thời gian.

Vị Giám mục đã niềm nở tiếp đón khách và đối xử ân cần đến nỗi Pi-tơ Bơ-rốt còn thấy thoải mái hơn cả ở nhà mình. Tuy nhiên chỉ lưu lại được vài ngày ông đã thu dọn hành lý, chào vị Giám mục và ra đi trước thời hạn dự định. Khi được hỏi tại sao ông lại vội vàng bỏ đi như vậy, ông Pi-tơ Bơ-rốt đã thú nhận: “Tôi không thể ở lại lâu hơn. Vì nếu còn ở lại, sớm muộn tôi cũng sẽ theo đạo Công giáo mất, một điều mà hiện tại bản thân tôi chưa muốn”.

Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

Nhân Danh Chúa Giêsu mà đuổi được ma quỷ,

đó là kinh nghiệm nổi bật của nhóm bảy mươi môn đệ.

Chính vì thế sau khi hoàn thành việc dọn đường cho Chúa,

nhóm này đã trở về, hân hoan khoe với Thầy chiến công.

Họ không kể chuyện họ loan báo Tin Mừng hay chữa bệnh,

nhưng lại kể cho Thầy chuyện họ khuất phục được ma quỷ.

Dĩ nhiên, họ không đuổi quỷ nhờ quyền uy của họ,

nhưng đơn giản là nhờ sức mạnh nơi Tên của Thầy.

Khi đọc Tên của Thầy, Tên Giêsu, thì ma quỷ khiếp vía,

dù chúng nó chẳng phải dạng vừa.

Các môn đệ rất vui về chuyện họ thắng một quyền lực lớn,

chỉ nhờ gọi Tên Thầy Giêsu (Lc 10, 17).

Ma quỷ chiếm ngự, làm chủ và bắt con người làm nô lệ.

Chúng nó là “người mạnh mẽ được vũ trang đầy đủ” (Lc 11, 21),

Nhưng Chúa Giêsu mới là “người mạnh hơn, ”

Ngài đã tước đoạt vũ khí của chúng (Lc 11, 22).

Ma quỷ chẳng phải là kẻ xa lạ với Chúa Giêsu.

Ngài đã thắng chúng từ cơn cám dỗ đầu tiên ở hoang địa,

và tiếp tục thắng trong những cuộc đối đầu sau này.

Nhưng Ngài không giữ riêng cho mình quyền trừ quỷ.

Ngài đã cho Nhóm Mười Hai năng lực và uy quyền

để họ trừ mọi thứ quỷ và chữa các bệnh tật (Lc 9, 1).

Ngài cũng đã cho nhóm bảy mươi quyền chữa bệnh.

Bị thần ô uế ám là một bệnh cần chữa lành (Lc 6, 18).

Khi lũ quỷ bị tống khứ, thì con người được tự do (Lc 8, 35).

Nước Thiên Chúa chiến thắng khi Nước của quỷ sụp đổ.

“Ma quỷ”, “Xatan”, “Kẻ Thù”, “các Thần dữ”

là những từ được dùng chỉ trong bốn câu (Lc 10, 17-20).

Chúng được dùng để chỉ những tà thần cám dỗ con người.

Xatan sẽ nhập vào anh Giuđa, thành viên của Nhóm Mười Hai,

và nó còn đòi sàng Nhóm này như sàng gạo (Lc 22, 3.31).

Đối với Chúa Giêsu, Xatan là một hiện hữu có thật.

Nhưng Ngài đã bảo vệ các môn đệ,

ban cho họ quyền uy để giày đạp sức mạnh của nó (Lc 10, 19).

Cuộc chiến giữa các môn đệ và Xatan kéo dài đến tận thế.

Những ai chịu Phép Thánh Tẩy đều tham gia cuộc chiến này,

vì chính Chúa sai họ đi như các nhóm môn đệ xưa.

Sớm muộn âm mưu của Xatan sẽ thất bại.

Chúa Giêsu thấy nó như tia chớp từ trời sa xuống (Lc 10, 18).

Khi chịu Phép Thánh Tẩy, chúng ta long trọng tuyên hứa

từ bỏ ma quỷ là kẻ gây ra và cầm đầu tội lỗi.

Kể từ khi ấy, chúng ta đứng ở tư thế đối đầu với Xatan.

Xatan luôn rình rập và quyến rũ chúng ta xa Chúa.

Vì chúng ta không đủ sức chống lại Xatan,

nên phải xin Cha đừng để mình sa chước cám dỗ,

và cứu chúng ta khỏi tay Ác thần (Mt 6, 13).

Mỗi giáo phận có những vị được chỉ định để trừ quỷ.

Tuy nhiên, các giáo dân cũng tham gia vào công việc này.

Khi sống giữa đời, họ cảm nhận được sức mạnh của thần dữ.

Satan quỷ quyệt len lỏi vào mọi ngõ ngách của cuộc sống.

Satan khéo léo thúc đẩy thế giới đi vào đường của nó.

Đường của Xatan không khó để nhận ra.

Đó là con đường dẫn đến xung đột, giết chóc và dối trá.

Nơi con đường này không có chia sẻ, tha thứ, cảm thông,

chỉ có đấu tranh để giành lấy quyền lực và quyền lợi.

Người giáo dân trừ quỷ khi ngăn chặn cái xấu ở mọi nơi.

Họ đẩy lui cái xấu bằng cách xây dựng bầu khí thánh.

Trong bầu khí này, mọi người vui sống như anh em,

và coi nhau như con cái Cha trên trời.

Hôm nay, chúng ta thấy mình được Chúa sai đến mọi nơi.

Chúng ta cứ chúc bình an, cứ chữa lành, cứ trừ quỷ,

cứ loan báo Nước Thiên Chúa nhân danh Chúa Giêsu,

và vui sướng vì biết tên mình được ghi trên trời.

LỜI NGUYỆN

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa không nhận mình là ngọn lửa,

nhưng nói mình ném lửa trên trần gian.

Chúa không nhận mình là ngọn lửa,

nhưng nhận mình là Ánh sáng.

Chúng con là những người được hưởng Ánh sáng của Chúa.

Xin đẩy xa chúng con bóng tối của ích kỷ, sa đọa, mưu mô,

bóng tối của thất vọng, chán chường, sợ hãi.

Xin cho chúng con sống đúng lời Chúa nói:

Các con là ánh sáng cho trần gian.

Ước gì chúng con làm chứng cho Ánh sáng Chúa,

trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào,

bằng đời sống trong sạch, ngay thẳng, vui tươi.

Chúa đã thắp sáng ngọn đèn cuộc đời chúng con.

Xin đặt chúng con trên đế

để soi chiếu cho thế giới hôm nay.

Chỉ mong cho danh Chúa được cả sáng hơn. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.