Cao Bính CRM
Câu chuyện ngắn: Ngày xưa, trong một khu rừng nhỏ ven làng, có một bụi tre xanh tốt, gắn bó với nhau như anh em ruột thịt. Những thân tre vươn cao, ôm sát nhau, cùng chắn gió, che mưa, rì rào kể chuyện mỗi khi gió lùa qua. Dù bao nhiêu cơn bão lớn nhỏ tràn đến, bụi tre vẫn vững vàng, không một thân nào gãy đổ.
Cách bụi tre không xa, có một cây tre con mọc đơn độc giữa bãi đất trống. Nó luôn tự hào về bản thân mình về sự tươi tốt và xanh tươi luôn có nhiều chim bay tới đậu trên nó, nó kiêu hãnh nhìn về phía bụi tre và thường cười mỉa: Các ngươi chỉ biết dựa vào nhau để sống. Ta mạnh mẽ và độc lập, chẳng cần ai bên cạnh! Bụi tre nghe vậy chỉ nhẹ nhàng nói: Chúng ta không yếu đuối, chúng ta chỉ là biết nương tựa để cùng vững vàng. Gió bão đâu chừa ai, một mình sẽ khó chống chọi. Nhưng cây tre đơn độc vẫn lắc đầu, phất phơ trong nắng và gió, tự hào vì sự tự do của mình.
Rồi một ngày, cơn bão lớn kéo đến. Gió gào rú, giật mạnh từng đợt. Bụi tre xiết chặt nhau hơn, rạp mình theo chiều gió, dùng thân mình che chở cho nhau. Qua một đêm dài, bão tan. Bụi tre vẫn đứng đó, lá rách đôi chút nhưng thân vẫn vững. Còn cây tre đơn độc? Nó đã bị quật ngã, gãy lìa, nằm trơ trọi trên đất, không ai nâng đỡ. Người làng đi ngang qua, thở dài: Cây tre sống đơn độc, ngỡ là mạnh mẽ, hóa ra lại dễ ngã nhất. Trong cuộc đời, chẳng ai sống một mình mãi được. Có tình thương, có sự gắn kết, mới có thể cùng nhau vượt qua giông bão.
Văn hào người Anh là John Donne đã có một câu nói nổi tiếng “Không ai là một hòn đảo” (No man is an island) ông muốn nhấn mạnh rằng trên thế giới không chỉ mỗi ta, nhưng còn có nhiều người khác để tạo nên một xã hội này. Như chúng ta biết rằng; dân số thế giới tính đến năm 2024 đã vượt mốc hơn 8 tỷ người. Đúng vậy, chúng ta được tạo dựng không phải chỉ để sống đơn độc, nhưng là để sống với nhau và vì nhau. Thật thế, trong bối cảnh đời sống thánh hiến, ơn gọi sống chung trong cộng đoàn, đó không chỉ là một đời sống chung để sinh hoạt, mà còn là con đường để giúp nhau sống Thánh, đó là cách thế để làm chứng cho tình yêu hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa. Bởi thế, sống tình liên đới nó đã trở thành nhịp cầu nối kết giữa các tu sĩ trong hành trình sống và làm chứng tá cho Tin Mừng ngày hôm nay.
Chúng ta biết rằng; thường những tu sĩ là những người sinh ra ở mỗi quê quán và gia đình khác nhau, có người thì sinh ra ở miền Bắc, người thì miền Trung, người thì lại miền Nam, mỗi miền có những phong tục và tập quán khác nhau. Cũng vì thế, vì được sống ở mỗi mỗi trường khác nhau như vậy, nên đã tạo cho mỗi người có những tính tình khác nhau. Bởi vì tính tình khác nhau như vậy, nên khi sống chung thường sẽ không thể tránh khỏi những va chạm trong cuộc sống. Nhưng thật ra, những va chạm đó được ví như là sự cọ xát, mài giũa, để làm giảm bớt đi những góc nhọn của tính tự cao, ích kỷ, kiêu căng…để càng ngày nên một con người hoàn thiện hơn, chính khi họ biết sống theo lý tưởng muốn theo sát Đức Kitô hơn và muốn sống Thánh.
Thật vậy, các tu sĩ là những người đã tự nguyện chấp nhận để vào sống chung trong một tu viện hay cộng đoàn, nơi đây họ được uốn nắn để càng ngày càng thêm hoàn thiện hơn. Dẫu rằng không phải là anh em máu mủ ruột thịt, nhưng họ được mời gọi sống với nhau và vì nhau. Chúng ta thử đặt câu hỏi rằng; nếu các tu sĩ không sống tình liên đới và đời sống bác ái với nhau thì sẽ như thế nào? Chắc có lẽ, chúng ta cũng sẽ phải thốt lên như một triết gia hiện sinh vô thần Jean Paul Sartre rằng: “Tha nhân là địa ngục” vì ông chỉ thấy nơi người khác sự giới hạn, kìm kẹp, đối lập và phiền toái, với ánh mắt của sự thù hận và bới móc nhau. Chính vì thế, sự liên đới trong cộng đoàn là dấu chỉ sống động của một tình yêu cao cả hơn tình yêu được đặt nền trên Đức Kitô: “Chúng ta hãy yêu thương, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước” (1 Ga 4,19).
Cũng thế, dù cuộc sống bên ngoài xã hội hay là trong đời sống tu trì, khó có ai có thể thoát khỏi những khó khăn hay những buồn chán trong cuộc sống. Song chúng ta được mời gọi sống chia sẽ những gánh nặng cho nhau, chia sẽ về vật chất cũng như tinh thần. Sống liên đới không chỉ dừng lại ở cảm xúc hay những lời nói trống rỗng, mà đòi hỏi sự hiện diện cụ thể, nhất là khi anh chị em mình lâm vào cảnh khó khăn, thử thách. Như Thánh Phaolô đã mời gọi: “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật của Đức Kitô.” (Gl 6,2). Hơn nữa, đời tu không thiếu những thử thách: công việc mục vụ nặng nề, những hy sinh thầm lặng, và cả những lúc mỏi mệt về mặt tâm linh. Vì vậy, sống tinh thần liên đới và nâng đỡ nhau là điều không thể thiếu. Như Thánh Phaolô đã viết: “Anh em hãy an ủi nhau và xây dựng cho nhau” (1 Tx 5,11). Một lời động viên nhẹ nhàng, một cử chỉ chia sẻ ân cần, có thể khơi lại động lực đời sống thánh hiến đang lặng lẽ héo mòn cho người anh em.
Hơn nữa, như người xưa có câu: “Nhân vô thập toàn” đã mang thân phận con người, khó ai tránh khỏi những sai lầm. Bởi thế, chúng ta cũng được mời gọi sống hãy biết thông cảm và tha thứ cho nhau. Đặc biệt hơn nữa là sống trong một cộng đoàn, rất khó để tránh khỏi xung đột hay hiểu lầm. Nhưng chính trong những đổ vỡ đó, tình liên đới được thử luyện và trở nên sâu sắc nếu biết sống thứ tha. Như Chúa Giêsu đã từng dạy rằng: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18,22) nghĩa là tha thứ không có giới hạn, một trái tim tha thứ không biên giới. Đối với các triết gia vô thần như Friedrich Nietzsche thì ông cho rằng;“Tha thứ là biểu hiện của kẻ yếu” bởi theo ông một kẻ mạnh không bao giờ bỏ qua cho kẻ xúc phạm đến mình, hay là để bị người khác bắt nạt. Nhưng đối với chúng ta thì khác, chúng ta sống theo Tin Mừng và Tin Mừng đã khẳng định rằng: tha thứ là sức mạnh của tình yêu. Chính vì thế, trong đời tu tha thứ đó là một cách thế để bước theo Đức Kitô, Đấng đã nói lời tha thứ dù bị phản đội và bị treo trên thánh giá, “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Hay như Thánh Phanxicô Assisi đã dạy rằng: “Hãy yêu thương người anh em khi họ yếu đuối, vì đó là lúc họ cần được yêu thương hơn cả”.
Bạn thân mến! John Donne đã khẳng định rằng; “Không ai là một hòn đảo” (No man is an island). Chúng ta được Thiên Chúa dựng nên và cho hiện diện trên trái đất này, ý định của Ngài muốn chúng ta sống liên đới với nhau để tạo nên một xã hội yêu thương. Đặc biệt hơn, là những người sống trong các cộng đoàn tu trì, họ được mời gọi sống liên kết như các thành viên trong gia đình. Sống tình liên đới trong đời tu không chỉ là bổn phận, mà còn là một ơn gọi thiêng liêng, nó nói lên sự tham dự vào chính sự hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa. Dẫu biết rằng đó là hành trình không dễ dàng, đòi hỏi mỗi người phải từ bỏ đi cái tôi, mở lòng đón nhận người anh em và sống chân thành, yêu thương, tha thứ và nâng đỡ nhau. Song khi các tu sĩ sống tình liên đới như thế, cộng đoàn tu trì trở thành dấu chỉ sống động của Nước Trời giữa trần gian, như ánh sáng chiếu rọi cho một thế giới đầy chia rẽ và ích kỷ.
Sau cùng, như Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã từng viết trong thông điệp Sollicitudo Rei Socialis: “Sống liên đới không phải là một cảm xúc mơ hồ, mà là quyết tâm kiên định dấn thân cho công ích; nghĩa là cho ích lợi của từng người vì tất cả chúng ta thực sự có trách nhiệm với mọi người”. Chúng ta được mời gọi hãy sống liên đới mật thiết với nhau, cùng nhau xây dựng một thế giới ngày thêm tươi đẹp hơn. Để chính qua đời sống liên đới yêu thương, mọi người sẽ nhận biết chúng ta là những môn đệ đích thực của Đức Kitô. “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng thương yêu nhau” (Ga 13,35).