Bài giảng Chúa Nhật XXX Thường Niên – Năm C


HÃY CẦU NGUYỆN TRONG KHIÊM NHƯỜNG

(Hc 35,12-14.16-18; 2Tm 4,6-8.16-18; Lc 18,9-14)

Anh chị em thân mến,

Người Công giáo Việt Nam chúng ta hằng năm vào những dịp thuận tiện rất hay đến các trung tâm hành hương như Đức Mẹ Fatima Bình Triệu, Măng Đen, Tà Pao, Trinh Phong hay Suối Mơ. Ở các khu hành hương này, người ta gắn rất nhiều bảng tạ ơn Chúa và Đức Mẹ. Trên đó ghi lại biết bao câu chuyện của những người được nhận ơn: có người được chữa lành bệnh tật về thể lý hay tinh thần, có người được cứu khỏi khốn khó, có người được bình an trong tâm hồn. Điều đặc biệt là, những bảng tạ ơn ấy không chỉ của những người có đạo mà còn của cả những người ngoài Công giáo. Tất cả họ, dù khác nhau về niềm tin, đều có chung một xác tín: Thiên Chúa và Đức Mẹ đã nghe lời cầu khẩn của họ.

Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có nhiều lời than trách: “Tôi cũng đi khấn nhiều nơi, đến nhiều đền đài, nhưng sao Chúa và Đức Mẹ vẫn chẳng nhận lời?” Câu hỏi ấy thật quen thuộc trong đời sống đức tin của chúng ta. Phải chăng Thiên Chúa không nghe lời chúng ta? Hay Thiên Chúa vẫn ban ơn, vẫn âm thầm trợ giúp, chỉ có điều chúng ta không nhận ra?

Cầu nguyện là hơi thở của đời sống đức tin. Một người tín hữu không cầu nguyện giống như thân xác không có hơi thở, khô héo và chết dần trong tương quan với Thiên Chúa. Cầu nguyện không chỉ là một nghi thức, mà là một cuộc gặp gỡ sống động với Đấng yêu thương ta vô cùng. Tuy nhiên, có người đã biến việc cầu nguyện thành một bản liệt kê, một buổi kể lể những điều mình muốn, mà quên rằng cầu nguyện đích thực còn là lắng nghe, là mở lòng ra để cho Chúa nói và hướng dẫn ta.

Trong bài đọc một hôm nay, sách Huấn Ca dạy chúng ta một chân lý sâu xa: “Lời cầu nguyện của người nghèo khổ vượt ngàn mây thẳm, lời khẩn cầu của kẻ mồ côi goá bụa sẽ được Chúa đoái đến” (Hc 35,17). Thiên Chúa không phải là vị thẩm phán lạnh lùng vô cảm. Người là Cha hằng yêu thương, luôn lắng nghe và bênh vực những ai bé nhỏ, bị áp bức, khiêm tốn kêu cầu Ngài. Khi Kinh Thánh nói đến “người nghèo,” không chỉ là nói đến những người túng thiếu vật chất, mà là nói đến những tâm hồn biết mình nhỏ bé, không cậy dựa vào sức riêng hay của cải thế gian, nhưng phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa.

Người nghèo mà Kinh Thánh nói đến là người biết mình cần đến Chúa. Họ đến với Chúa bằng tấm lòng trống rỗng, không mang theo gì ngoài niềm tin. Giống như mảnh đất trũng hứng lấy nước mưa, tâm hồn khiêm nhu cũng chính là nơi đón nhận ân sủng. Chúa chỉ có thể đổ đầy những tâm hồn biết hạ mình, vì nơi ấy còn chỗ cho ơn Người trú ngụ.

Ngược lại, những người đến với Chúa nhưng không dám buông bỏ chính mình, không chịu trút xuống gánh nặng của cái tôi, của sự kiêu ngạo, thì giống như những người giàu có trong lòng. Họ có thể không giàu tiền của, nhưng lại giàu tự phụ, giàu ý riêng, giàu toan tính. Họ đến với Chúa, nhưng vẫn muốn giữ lấy quyền quyết định, muốn Chúa làm theo ý họ. Lời cầu nguyện của họ không phải là lời của người con thảo biết nương tựa vào Cha, mà là cuộc thương lượng, thậm chí là đặt điều kiện với Thiên Chúa. Và khi điều họ xin không xảy ra theo ý mình, họ dễ dàng thất vọng, oán trách, buông xuôi.

Để giúp ta nhận ra thái độ nào đẹp lòng Chúa trong cầu nguyện, Chúa Giêsu kể dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người Biệt Phái và một người thu thuế (Lc 18,9-14). Hai người, hai cách cầu nguyện, hai kết quả hoàn toàn khác nhau.

Người Biệt Phái là mẫu người đạo đức kiểu mẫu trong xã hội Do Thái xưa. Ông chu toàn mọi lề luật, ăn chay, dâng cúng, cầu nguyện đúng giờ. Trước mặt người đời, ông là người tốt lành, đạo hạnh. Nhưng Chúa thấu rõ tâm hồn ông lại đầy sự kiêu căng. Khi cầu nguyện, ông đứng thẳng, hiên ngang, không hướng lòng về Chúa, mà chỉ muốn người ta nghe ông nói: “Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì con không như bao người khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc 18,11-12).

Những lời ấy không phải là lời cầu nguyện, mà là một bản tự thuật khoe khoang. Ông không đối thoại với Chúa, mà chỉ độc thoại với chính mình. Ông kể công, liệt kê thành tích và xem đó như món nợ để đòi Chúa trả.

Trái lại, người thu thuế vốn bị dân chúng coi thường, bị xem là tội nhân vì cộng tác với đế quốc Rôma, lại có một thái độ hoàn toàn khác. Anh không dám tiến gần, chỉ quỳ ở đằng xa, cúi mặt xuống, vừa đấm ngực vừa thưa: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13). Chỉ một lời ngắn ngủi, nhưng đó là lời cầu nguyện đẹp nhất. Ông không kể công, không biện minh, chỉ nhìn nhận mình yếu hèn và cần được xót thương. Có thể người thu thuế ấy giàu có vật chất, nhưng trong tâm hồn, anh thật nghèo: nghèo trước Thiên Chúa, nghèo trong lòng tin, nghèo vì biết mình chẳng có gì để dâng ngoài tấm lòng sám hối. Anh dám trút bỏ mọi thứ danh lợi, địa vị, tự ái để đến với Chúa bằng đôi tay trống rỗng.

Chính vì thế, Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính, còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18,14).

Người thu thuế được nên công chính không phải vì anh hoàn hảo, mà vì anh khiêm nhường. Còn người Biệt Phái tuy tưởng mình công chính, lại hóa ra trống rỗng, vì lòng kiêu căng đã ngăn cản ân sủng đến với anh.

Thưa anh chị em, Lời Chúa hôm nay mời ta nhìn lại chính mình trong đời sống cầu nguyện. Chúng ta có đang đến với Chúa bằng tâm hồn khiêm tốn như người thu thuế, hay bằng thái độ tự mãn như người Biệt Phái? Có khi chúng ta than trách rằng: “Sao tôi cầu nguyện mãi mà Chúa chẳng nghe?” Nhưng biết đâu chính vì ta chưa thật sự cầu nguyện, mà chỉ đang kể lể, đang yêu cầu, đang muốn Chúa hành động theo ý ta.

Cầu nguyện thật không phải là ép buộc Thiên Chúa làm theo mình, mà là mở lòng để mình được biến đổi theo ý Chúa. Thiên Chúa không bao giờ làm ngơ trước lời cầu xin của con cái. Chỉ là, khi lòng ta còn đầy ý riêng, còn chứa đầy kiêu hãnh, Chúa không thể đặt ơn Người vào đó. Chúa không từ chối, nhưng Người chờ ta biết buông bỏ để có chỗ cho Người ở lại.

Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Người không tìm kiếm những lời cầu dài dòng, nhưng nhìn vào tâm hồn của người cầu nguyện. Người vui thích khi thấy ta đến với Người như một đứa con nhỏ, đơn sơ, khiêm nhường, phó thác. Một đứa trẻ khi gặp khó khăn, chỉ cần ngước lên và nói: “Cha ơi!”, người cha sẽ hiểu và ôm lấy nó. Cũng vậy, khi ta thưa: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”, Thiên Chúa cũng sẽ hiểu tất cả những gì lòng ta muốn nói.

Cầu nguyện là hành trình học hỏi để trở nên nhỏ bé. Càng khiêm nhường, ta càng gần Chúa. Càng buông bỏ, ta càng tự do. Càng trống rỗng trước mặt Chúa, ta càng được đổ đầy ân sủng. Dù anh chị em đang ở trong hoàn cảnh nào vui hay buồn, thành công hay thất bại, bình an hay thử thách, Thiên Chúa đều biết và thấu hiểu. Đừng sợ đến với Chúa, dù ta yếu đuối, tội lỗi hay thất vọng. Hãy đến như người thu thuế năm xưa, với tất cả sự thật của lòng mình, và thưa lên: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13).

Chắc chắn, những lời cầu xin phát xuất từ tâm hồn khiêm nhường ấy sẽ vượt qua ngàn mây thẳm (Hc 35,17) và chạm đến trái tim Thiên Chúa, vì Người là người Cha của lòng thương xót, luôn nghiêng mình nghe tiếng con cái khẩn cầu. Amen.

Lm Phêrô Maria Nguyễn Thái Công, CRM.