Chiêm Ngưỡng Nhân Tính Của Đức Kitô Sau Phục Sinh

Sự phục sinh của Đức Kitô là một sự kiện trung tâm trong đức tin Kitô giáo, không chỉ xác nhận chiến thắng của Người trên sự chết mà còn mạc khải một thực tại hoàn toàn mới: nhân tính của Người đã được biến đổi trong vinh quang. Điều này có thể gợi lên cho chúng ta một câu hỏi thú vị: thân thể phục sinh của Đức Kitô có gì khác biệt so với trước đó?

Chắc chắn rằng việc Đức Kitô phục sinh không phải là việc trở lại với cuộc sống trần thế cũ, giống như sự sống lại của những người mà Người đã từng cho sống lại trước đó: con gái ông Giairô, người thanh niên thành Naim và anh Lazarô. Những người này, được hưởng phép lạ sống lại, họ tiếp tục cuộc sống thông thường và rồi cuối cùng lại phải trải qua cái chết một lần nữa. Nhưng  Đức Giêsu thì khác hẳn. Người đã không trở về với cuộc sống cũ mà bước vào một trạng thái hoàn toàn mới, trạng thái vinh quang, đầy tràn quyền năng của Chúa Thánh Thần, và không bao giờ chết nữa (1Cr 15,42-44).

Thân thể phục sinh của Người không còn bị ràng buộc bởi không gian và thời gian nữa, nhưng có thể hiện diện ở bất cứ đâu và bất cứ lúc nào theo ý muốn. Người có thể vào căn phòng nơi các môn đệ đang tụ họp mà không cần mở cửa! Người cũng hoàn toàn tự do trong việc hiện ra với các môn đệ dưới những hình dạng khác nhau: có khi dưới hình dạng một người làm vườn, và bà Maria Macđala không nhận ra cho đến khi Người gọi tên bà, có khi dưới hình dạng một người khách bộ hành đi cùng với hai người môn đệ trên đường Emmaus và các ông không nhận ra cho đến khi họ ngồi vào bàn và Chúa Giêsu làm nghi thức bẻ bánh, có khi Người mang một diện mạo mà các môn đệ không nhận ra ngay lập tức, như được tường thuật trong các sách Tin Mừng.

Tuy nhiên, thân thể phục sinh ấy không phải là một “bóng ma” hay như những câu chuyện người chết hiện hồn. Trong suốt 40 ngày sau phục sinh, Người vẫn trực tiếp liên hệ với các môn đệ, không chỉ qua đối thoại mà còn có thể đụng chạm và dùng bữa với họ. Các tông đồ có thể thấy rõ thân thể phục sinh của Đức Giêsu chính là thân thể đã bị hành hạ và đóng đinh vào thập giá, bởi nó vẫn còn mang những dấu vết của cuộc khổ nạn: vết đinh nơi chân tay, vết giáo đâm ở cạnh sườn. Điều này khẳng định rằng sự phục sinh không phải là sự biến mất của nhân tính Đức Kitô nhưng chính là sự hoàn tất mầu nhiệm Nhập thể theo kế hoạch vĩnh cửu của Thiên Chúa. Nhân tính của Đức Kitô không còn chịu sự chi phối của đau khổ và cái chết nữa, nhưng đã tiến vào vinh quang Thiên Chúa, mở ra con đường hy vọng cho toàn thể nhân loại. [1]

Phần chúng ta, vì đã tin và kết hợp với Đức Kitô trong cuộc đời này nên trong ngày sau hết mỗi người chúng ta cũng sẽ sống lại với xác của mình nhưng được biến đổi thành thân xác vinh hiển. Kinh Thánh Tân Ước mạc khải cho chúng ta biết:

“Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người.” (Pl 3,20-21)

“… tất cả chúng ta sẽ được biến đổi trong một giây lát… Cái thân phải hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt và cái thân phải chết này sẽ mặc lấy sự bất tử” (1Cr 15,52-53).

Cả hai đoạn Kinh Thánh trên đây đều nhắc đến “biến đổi” để trở “nên như thân xác vinh hiển của Chúa Giêsu”. Biến đổi chính cái “thân xác này”, “thân xác của chúng ta” chứ không phải thân xác xa lạ nào khác.

Khi ấy thân xác của chúng ta sẽ không khuyết tật, không đau yếu, không hư nát, và nhất là không bao giờ chết nữa. Bởi vì: “người ta được gieo trong hèn hạ mà chỗi dậy thì vinh quang” (1Cr 13,43).

Vâng. Hình ảnh Đức Giêsu phục sinh với thân thể vinh hiển, vẫn mang dấu tích của cuộc khổ nạn nhưng không còn bị giới hạn bởi không gian và thời gian, là một dấu chỉ của niềm hy vọng lớn lao. Chính trong niềm vui vỡ òa của Người khi bước ra khỏi mồ, chúng ta nhận ra lời mời gọi bước theo ánh sáng phục sinh, để cùng Người tiến vào sự sống mới tràn đầy ân sủng và bình an.

V.NghiaX, CRM

[1] Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, Ủy ban GLĐT thuộc HĐGMVN Dg, Nxb Tôn Giáo, 2012, số 653, 656.