1. Năm Thánh Là Gì?
Trong Do Thái giáo cổ xưa, Năm Thánh được gọi là năm yōbēl, “năm của con cừu đực”, vì người ta thổi tù và làm bằng sừng con cừu đực để công bố Năm Thánh, sừng này cũng được thổi vào ngày lễ Xá Tội (Yom Kippur) mỗi năm một lần. Sách Lêvi nói đến lệnh truyền của Chúa cho Môsê về Năm Thánh là năm thứ 50 như sau: “(Các) ngươi phải tính bảy tuần năm, nghĩa là bảy lần bảy năm; thời gian của bảy tuần năm đó là bốn mươi chín năm. Tháng thứ bảy, ngày mồng mười trong tháng, (các) ngươi sẽ thổi tù và giữa tiếng reo hò; vào ngày Xá tội, (các) ngươi sẽ thổi tù và trong toàn xứ các ngươi. Các ngươi sẽ công bố năm thứ năm mươi là năm thánh và sẽ tuyên cáo trong xứ lệnh ân xá cho mọi người sống tại đó. Đối với (các) ngươi, đó là thời kỳ toàn xá: mỗi người trong các ngươi sẽ trở về phần sở hữu của mình, mỗi người sẽ trở về dòng họ của mình” (Lv 25: 8-10).
Như vậy, trong Kinh Thánh, Năm Thánh (năm Toàn Xá) được đánh dấu như một thời gian để đổi mới mối quan hệ đúng đắn với Thiên Chúa, giữa con người với nhau, và giữa con người với tất cả các tạo vật. Nó liên quan đến việc tha thứ các khoản nợ, trả lại đất đai bị chiếm đoạt và một thời gian bỏ hoang cho đất đai.Trong thời kỳ này, luật pháp Môsê quy định rằng nô lệ có thể giành lại tự do và đất đai, mà Thiên Chúa là chủ duy nhất, phải được trả lại cho chủ sở hữu cũ (Lv 25:11-17).
Tin Mừng Luca trích dẫn lời tiên tri Isaia để mô tả sứ mệnh của Chúa Giêsu: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” (Lc 4:18-19; Is 61:1-2). Chúa Giêsu đã sống những lời này trong cuộc đời, trong các mối quan hệ và gặp gỡ, mang lại sự hoán cải, giải thoát và niềm vui cho người khác.
Trong lịch sử Hội Thánh, Năm Thánh đầu tiên là năm 1300, do Đức Giáo Hoàng Boniface VIII thiết lập. Khoảng cách giữa các Năm Thánh đã thay đổi theo thời gian: lúc đầu, Năm Thánh được cử hành 100 năm một lần; sau đó, vào năm 1343, Đức Giáo Hoàng Clement VI đã chỉ định các Năm Thánh vào mỗi 50 năm và năm 1470 Đức Giáo Hoàng Phaolô II định rằng Năm Thánh được cử hành vào mỗi 25 năm. Ngoài ra, có những Năm Thánh “ngoại thường”: ví dụ, Đức Giáo Hoàng Piô XI đã chọn năm 1933 là Năm Thánh để kỷ niệm 1900 Ơn Cứu Độ; cũng vậy, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II công bố năm 1983 là Năm Thánh để kỷ niệm 1950 Ơn Cứu Độ qua mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô và Đức Giáo Hoàng Phanxicô tuyên bố Năm Lòng Thương Xót vào năm 2015 là một Năm Thánh đặc biệt. Cách cử hành Năm Thánh cũng đã thay đổi qua nhiều thế kỷ: ban đầu Năm Thánh bao gồm một cuộc hành hương đến các Vương cung thánh đường Thánh Phêrô và Thánh Phaolô ở Roma, sau đó các hình thức khác đã được thêm vào, chẳng hạn như bước qua Cửa Thánh.
Năm Thánh là thời gian mà người tội lỗi hoán cải được ban ơn tha thứ các hình phạt do tội gây ra, con người phải thống hối và canh tân cũng như hòa giải với Thiên Chúa và anh chị em. Ðể được hưởng những ơn lành Thiên Chúa ban cho trong Năm Thánh này, Kitô hữu phải nhận thức trước hết Năm Thánh là nhằm thánh hóa cuộc sống, củng cố đức tin, tạo cơ hội thuận tiện để xây dựng tình liên đới và hiệp thông huynh đệ trong lòng Giáo Hội và thế giới, khuyến khích mọi người tuyên xưng đức tin một cách chân thành và sống động hơn nơi Ðức Kitô, Ðấng Cứu Ðộ duy nhất của nhân loại.
2. Năm Thánh 2025: Những người hành hương của hy vọng
Đức Giáo hoàng Phanxicô nói về mục đích của Năm Thánh 2025:
“Nay đã đến lúc công bố một Năm Thánh mới, để một lần nữa Cửa Thánh lại được rộng mở hầu mang lại cảm nghiệm sống động về tình yêu của Thiên Chúa, tình yêu khơi dậy trong tâm hồn niềm hy vọng chắc chắn về ơn cứu độ nơi Chúa Kitô.” (Sắc chỉ Năm Thánh 2025, số 6). Theo ngài, Năm Thánh cũng là một “thời điểm gặp gỡ Chúa Giêsu cách sống động và cá vị, Người là “cánh cửa” ơn cứu độ (Ga 10,7.9), là “niềm hy vọng của chúng ta” (1 Tm 1,1) để Hội Thánh được tăng thêm sức mạnh và nhiệt thành loan báo Chúa Kitô ở mọi nơi và cho tất cả mọi người” (Sắc chỉ, số 6).
Chủ đề của Năm Thánh 2025 là: Những Người Hành Hương của Hy Vọng. Trong Sắc chỉ Năm Thánh, Đức Phanxicô đã trình bày những lý do khi ngài nhấn mạnh đến niềm hy vọng nơi các tín hữu trong Năm Thánh sắp đến:
- Trước hết, hy vọng mang tính nhân bản; mỗi người đều “khao khát và chờ đợi những điều tốt đẹp sẽ đến, dù chúng ta không biết ngày mai sẽ ra sao.” Nhưng, tính bấp bênh của tương lai cũng thường đem lại những lo âu, chán nản hay nghi ngờ. Vì thế Đức Thánh Cha mong muốn “Năm Thánh là cơ hội cho mỗi người nhen nhóm lại niềm hy vọng” qua sự soi sáng của Lời Chúa (Sắc chỉ, số 1).
- Đức tin sinh ra “niềm hy vọng hưởng vinh quang của Thiên Chúa.” Chúng ta hy vọng vào lời hứa Nước Trời mà Chúa Kitô hứa trong Tám mối phúc thật. Thánh Phaolô viết: “Niềm hy vọng này không làm cho chúng ta phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta.” (Rm 5,1-2.5). “Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chết và sống lại, là lời loan báo niềm hy vọng sẽ hoàn thành lời hứa, sẽ dẫn đến vinh quang và không làm thất vọng vì có nền tảng là tình yêu” (Sắc chỉ, số 2). Tình yêu của Thiên Chúa làm chúng ta đứng vững trong hy vọng: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.” (Rm 8,35.37-39). Theo Đức Thánh Cha, tình yêu tuôn đổ từ Trái Tim Chúa Giêsu bị đâm thâu trên thập giá: Chúa Kitô chết vì chúng ta là những kẻ tội lỗi thù địch để chúng ta giao hòa với Thiên Chúa (Rm 5:10) (Sắc chỉ, số 3).
- Hy vọng là một nhân đức cần được tái khám phá trong các dấu chỉ của thời đại, bao hàm “sự khao khát của tâm hồn con người, cần đến sự hiện diện cứu độ của Thiên Chúa. Những dấu chỉ ấy xin được biến đổi thành dấu chỉ của niềm hy vọng” (Sắc chỉ, số 7), vốn trước hết phải được rút ra từ ân sủng của Thiên Chúa và lòng thương xót trọn vẹn của Người. Thế giới hôm nay đầy những chiến tranh, bạo lực, khủng hoảng kinh tế, nhưng chúng ta cần tìm kiếm các dấu hiệu hy vọng qua sự tốt lành trong thế giới để không bị đè nặng bởi cái ác và bạo lực (Sắc chỉ, số 8). Khao khát hòa bình của mọi người, mong muốn về một mối quan hệ với Chúa Giêsu và mối quan tâm ngày càng tăng đối với môi trường, cũng như khao khát sinh con của các cặp vợ chồng là tất cả những dấu hiệu cho thấy hy vọng vẫn còn tồn tại (Sắc chỉ, số 9,10).
- Các Kitô hữu chúng ta không chỉ củng cố ý thức hy vọng của chính mình, mà còn phải trở nên “những dấu hiệu hữu hình của hy vọng cho những người đang sống trong hoàn cảnh khốn cùng” hay nên chứng nhân của tình yêu Chúa bởi việc sinh con, chào đón người di cư, thăm viếng tù nhân, chăm sóc người bệnh hay tàn tật, người cao niên, xây dựng hòa bình, phản đối án tử hình, đề nghị các nước giàu tha nợ cho nước nghèo, cầu nguyện cho các linh hồn trong luyện ngục (Sắc chỉ, số 9-14).
Sắc chỉ Năm Thánh cho biết: Năm Thánh sẽ khai mạc tại Vatican vào ngày 24/12/2024và kết thúc vào ngày 06/01/2026, lễ Hiển Linh. Đức Thánh Cha Phanxicô cũng yêu cầu các Giám mục trên khắp thế giới khai mạc Năm Thánh tại giáo phận địa phương vào ngày 29/12/2024 và cử hành kết thúc Năm Thánh tại địa phương vào ngày 28/12/2025 (Sắc chỉ, số 7). Năm Thánh 2025 chuẩn bị cho Hội Thánh đến một sự kiện quan trọng hơn là Năm Thánh 2033 kỷ niệm 2000 năm Chúa Kitô chết và phục sinh mang lại ơn cứu độ cho nhân loại.
Liệt kê các tù nhân là những người đầu tiên cần hy vọng, Đức Giáo Hoàng nói rằng ngài muốn mở một cánh Cửa Thánh trong một nhà tù mặc dù ngài chưa cung cấp thêm chi tiết. Ngài muốn quảng diễn sự gần gũi của Hội Thánh với những ai đang mất hy vọng và yêu cầu các chính phủ trên thế giới xem xét các chương trình ân xá và ân xá năm thánh cho các tù nhân, đồng thời giúp họ hòa nhập vào xã hội sau khi được tự do (Sắc chỉ, số 11).
3. Hành Hương Năm Thánh Có Ý Nghĩa Gì?
Năm Thánh kêu gọi chúng ta bắt đầu một cuộc hành trình và đi ra khỏi chính mình để luôn đến cùng Thiên Chúa. Khi đi xa, chúng ta tìm hiểu nơi đến và chuẩn bị cho cuộc hành trình. Cuộc hành hương Năm Thánh bắt đầu trước khi chúng ta bước chân ra đi: điểm khởi đầu là quyết định lên đường. Từ nguyên gốc của “hành hương – pilgrimage” khá rõ ràng và đã rất ít thay đổi về ý nghĩa trong những năm qua. Từ này xuất phát từ tiếng Latinh “per ager”, có nghĩa là “băng qua các cánh đồng”, hoặc có lẽ từ “per eger” có nghĩa là “vượt biên giới”: cả hai nguồn gốc đều chỉ ra khía cạnh đặc biệt của việc thực hiện một cuộc hành trình.
Trong Kinh Thánh, ông Ápraham được mô tả là một người đang trên cuộc hành trình: “Hãy ra khỏi xứ mình, người thân và nhà cha ngươi” (St 12:1). Với những lời này, Ápraham bắt đầu cuộc phiêu lưu của mình, kết thúc ở Đất Hứa, nơi ông được nhớ đến như một “người Aram phiêu bạt” (Đnl 26:5). Sứ vụ của Chúa Giêsu cũng có thể được xem như một cuộc hành trình, từ Galilê đến thành thánh Giêrusalem… “Khi đến lúc Chúa Giêsu sắp được cất lên trời, Ngài rắp lòng lên đường đi lên Giêrusalem” (Lc 9:51). Chính Chúa Kitô kêu gọi các môn đệ bước đi trên con đường này, và ngay cả ngày nay Kitô hữu đi theo Ngài và làm cuộc hành trình nối gót Ngài.
Đức Phanxicô viết trong Sắc chỉ Năm Thánh: “Không phải ngẫu nhiên mà hành hương là yếu tố cơ bản của mọi sự kiện Năm Thánh. Lên đường là đặc điểm của người đi tìm ý nghĩa của cuộc sống. Hành hương bằng cách đi bộ rất có lợi cho việc tái khám phá giá trị của sự thinh lặng, sự cố gắng và của điều thiết yếu” (Sắc chỉ, số 5). Hành hương tượng trưng và nhắc nhở chúng ta về hành trình cuộc đời của người môn đệ là bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Chúa Kitô lên Giêrusalem (Mc 8:34) để trở về cùng Cha (Ga 13:1). Ngài đi trước để dọn chỗ cho chúng ta (Ga 14:2). Các môn đệ là những người hành hương, “ở trong thế gian” nhưng “không thuộc về thế gian” mà “thuộc về Cha” (Ga 17, 9,10,14). Chúa Ktiô về cùng Cha Ngài cũng là Cha chúng ta, về cùng Thiên Chúa của Ngài cũng là Thiên Chúa chúng ta (Ga 20:18). Tiếng gọi của Chúa: “Hãy theo thầy” luôn mời gọi chúng ta làm cuộc hành hương là rời bỏ, để lại đằng sau, tin tưởng và hy vọng vào lời hứa của ngài để đi ra khỏi “con người cũ” mà trở nên “con người mới” (Ep 4: 22,24), nên đồng hình dạng với Chúa Kitô (Rm 8,29). Đức Phanxicô viết: “Hành hương là một kinh nghiệm hoán cải, biến đổi chính bản thể của một người để phù hợp với sự thánh thiện của Thiên Chúa” (Sắc chỉ, số 5).
4. Của Thánh Có Ý Nghĩa Gì?
Cửa Thánh mang một ý nghĩa biểu tượng đặc biệt: nó là dấu hiệu mạnh mẽ nhất của Năm Thánh, vì mục đích cuối cùng của người hành hương là đi qua Cửa Thánh. Cửa Thánh tượng trưng cho ơn cứu độ mà Thiên Chúa mở ra cho chúng ta qua Chúa Kitô. Việc Đức Giáo Hoàng mở Cửa Thánh là chính thức khai mạc Năm Thánh. Ban đầu, chỉ có một cánh cửa, tại Vương cung thánh đường Thánh Gioan Lateran, nhà thờ Chính tòa của Đức Giám mục Roma. Sau đó, để đáp ứng số đông các tín hữu về hành hương Năm Thánh, các Vương cung thánh đường Roma khác của Đức Giáo Hoàng cũng mở Cửa Thánh cho các tín hữu.
Khi bước qua ngưỡng Cửa Thánh, người hành hương được nhắc nhở về đoạn Tin Mừng Gioan: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ” (Ga 10:9). Đi qua Cửa Thánh thể hiện quyết định đi theo và được hướng dẫn bởi Chúa Giêsu, Đấng là Mục tử nhân lành. Cửa là một lối đi dẫn người hành hương vào bên trong một nhà thờ. Đối với cộng đồng Kitô hữu, một nhà thờ không chỉ là một không gian thiêng liêng, được tôn trọng, nhưng là một biểu tượng của sự hiệp thông ràng buộc mọi tín hữu với Chúa Kitô: đó là một nơi gặp gỡ và đối thoại, của sự hòa giải và hòa bình cho mọi người hành hương; nhà thờ về cơ bản là nơi tụ họp của cộng đoàn tín hữu.
Ở Roma, kinh nghiệm này có một ý nghĩa sâu sắc vì những liên kết đặc biệt giữa kinh thành vĩnh cửu với Thánh Phêrô và Phaolô, các tông đồ đã rao giảng Tin Mừng tại Roma và đã chịu tử đạo làm chứng cho Chúa tại đây. Cùng với mộ của hai vị Tông Đồ cả của Giáo Hội, những địa điểm linh thánh tại đây là nguồn khích lệ đức tin của các tín hữu.