Suy Niệm Lễ Hai Thánh Tông Đồ Phêrô Và Phaolô

Bàn thạch Phê-rô trường tồn thay!
Đồng trụ Phao-lô trường tồn đây! 

Đó là lời trích từ bài thánh ca của nhạc sĩ Hùng Lân và Hùng Thái Hoan mang tựa đề “Hai người tiên phong”. Lời của bài thánh ca diễn tả vai trò quan trọng của hai vị Tông đồ đối với Giáo hội, là cộng đoàn do Chúa Giê-su thiết lập. Phê-rô được ví như bàn thạch; Phao-lô được sánh như trụ đồng. Chúa Giê-su đã nói với Phê-rô: “Anh là Kê-pha, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16,18). Người cũng nói với Phao-lô: “Ta hiện ra với ngươi là để chọn ngươi làm đầy tớ và làm chứng nhân về những điều ngươi đã thấy, cũng như những điều ta sẽ hiện ra mà tỏ cho ngươi biết” (Cv 26,16). Phao-lô luôn ý thức ơn Chúa gọi, và ông đã khẳng định: “Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người. Người đã đoái thương mặc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại” (Gl 1,15-16).

Dù còn mang nhiều yếu tố nhân loại, Giáo hội Ki-tô không phải là công trình của con người, nhưng là công trình của Thiên Chúa. Thiên Chúa có kế hoạch của Ngài trong việc thiết lập và điều khiển cộng đoàn những người tôn thờ Chúa. Qua hai vị tông đồ là Phê-rô và Phao-lô, chúng ta thấy sự kỳ diệu của chương trình này. Nếu Phê-rô là bàn thạch của ngôi nhà Giáo hội, thì Phao-lô là trụ đồng để nâng đỡ ngôi nhà đó. Không có bàn thạch, ngôi nhà không thể bền vững với thời gian; không có trụ đồng, ngôi nhà không thể che chắn bão mưa giăng đầy. Qua các thư, nhất là thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô đã trình bày một hệ thống giáo lý chắc chắn và có sức thuyết phục đối với người Do Thái cũng như dân ngoại. Ông khẳng định: “Ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật Mô-sê. Quả thế, người ta được Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ lòng tin vào Đức Giê-su Ki-tô. Tất cả những ai tin đều được như thế, bất luận là ai” (Rm 3,21-22). Với khẳng định này, Phao-lô đã đưa nhân loại sang một trang sử mới, đó là trang sử được viết bằng máu Đức Giê-su và chiến thắng của Người trên sự chết.

Nếu Phê-rô, vốn là một người dân chài đơn sơ chất phác, hăng hái làm chứng về Đức Giê-su phục sinh, thì Phao-lô, một người uyên bác đã học theo trường phái Ga-ma-li-en (x.Cv 22,30), lại ưu tư xây dựng một hệ thống giáo lý với mục đích trình bày kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa nay đã được thực hiện trong Đức Giê-su Ki-tô.

Nếu Ki-tô giáo chỉ có Phê-rô, có thể Giáo hội chỉ đến với giới bình dân và giới hạn nơi người Do Thái; Nếu Ki-tô giáo chỉ có Phao-lô, Giáo hội sẽ chỉ có những người uyên thâm trí thức. Hai vị thánh này đã tạo nên một hình ảnh hài hòa đa chiều về cộng đoàn tín hữu do Chúa Giê-su thiết lập. Sự hài hòa ấy được diễn tả trong Kinh Tiền tụng của ngày lễ: “Thánh Phê-rô là người đầu tiên tuyên xưng đức tin, thánh Phao-lô là người làm sáng tỏ đức tin. Thánh Phê-rô thiết lập Hội thánh tiên khởi cho người Ít-ra-en, thánh Phao-lô là thầy giảng dạy muôn dân”. Chính việc “làm sáng tỏ đức tin” này đã làm cho Phao-lô trở thành cột trụ vững chắc của Giáo hội, nhất là khi phải đối diện với thù trong giặc ngoài. Khởi đi từ giáo huấn của thánh Phao-lô, Giáo hội có thể đối thoại với mọi nền văn hóa và mọi thời đại.

Để trung thành với sứ mạng Chúa Giê-su trao phó, hai vị thánh tông đồ của chúng ta đã đều chấp nhận cái chết. Cuộc tử đạo của các ngài đã làm nên sức mạnh của cộng đoàn tín hữu tiên khởi. “Tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính”. (2 Tm 6-8). Những lời trải lòng của Phao-lô với người môn sinh của mình đã cho thấy ông luôn sẵn sàng chấp nhận hy sinh làm lễ tế dâng lên Thiên Chúa. Vị Tông đồ luôn xác tín vào quyền năng và tình yêu thương của Thiên Chúa, chắc chắn sẽ được đón nhận phần thưởng thiên quốc, vì suốt đời ông đã chiến đấu cho chính nghĩa.

Ngày lễ hôm nay vừa nhắc lại nền tảng vững chắc của Giáo hội Chúa Ki-tô, vừa mời gọi mỗi tín hữu hiệp thông với Đức Giáo hoàng Rô-ma, người kế vị thánh Phê-rô để lãnh đạo Giáo hội. Phụng vụ cũng mời gọi chúng ta noi gương các ngài để chiến đấu trong cuộc chiến chính nghĩa, làm cho vương quốc của Thiên Chúa lan rộng trên trần gian. Mỗi Ki-tô hữu là một tông đồ, tức là người được sai đi để loan báo Lời Chúa. Nhờ lời chuyển cầu của hai thánh tông đồ Phê-rô và Phao-lô, xin cho chúng ta có sức mạnh và nhiệt tình để thực thi sứ vụ cao cả này.

+TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

(Mt 16, 13-19)

Thánh lễ hôm nay đưa chúng ta về với hai cột trụ nền tảng của Hội Thánh là Phê-rô và Phao-lô. Hai vị tông đồ vĩ đại, khác nhau về gia cảnh, thân thế, trình độ, tính cách, hành trình đức tin và ơn gọi. Nhưng cả hai đều được Chúa Giê-su dùng để xây dựng Hội Thánh. Phê-rô Đá Tảng được tuyển chọn. Phao-lô nhà truyền giáo vĩ đại.

Thánh Phê-rô – Đá tảng được tuyển chọn

Thánh Phê-rô, với tên cúng cơm là Si-mon con ông Giô-na, làm nghề chài lưới miền Ga-li-lê, đã được Chúa Giê-su gọi để trở thành “kẻ lưới người ta” (Mt 4,19). Cuộc đời của ngài là một hành trình được uốn nắn qua đức tin, yếu đuối, sa ngã, nhưng sau cùng là lòng trung thành đến chết.

Khi Chúa Giê-su hỏi các môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”, chính Phê-rô đã tuyên xưng: “Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,15-16). Chúa Giê-su đã chúc phúc cho Phê-rô và tuyên bố: “Con là Đá, trên đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy…” (Mt 16,18).

Mỗi lần đọc đoạn Tin Mừng (Ga 21, 15-19) với ba lần Chúa Giê-su hỏi Phê-rô: “Si-mon, con ông Gio-an, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?” Hai lần ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Lần thứ ba ông thưa: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy”, không khỏi làm chúng ngỡ ngàng về sự lựa chọn của Chúa khi bảo Phê-rô: “Hãy chăm sóc chiên con… chiên mẹ… của Thầy” (x. Ga 21.15.16.17). Đáp lại sự tín nhiệm của Thầy, Phê-rô đã thi hành sứ mạng cách trung thành cho đến tử vì Đạo tại Rô-ma, đến nỗi đóng đinh ngược đầu như lời thánh giáo phụ Origen kể lại. Đúng như lời thánh Au-gút-ti-nô nói: “Trong Phê-rô, chúng ta thấy hình ảnh của Giáo hội: yếu đuối nhưng được củng cố bởi ân sủng và quyền năng Chúa”.

Thánh Phao-lô – Nhà truyền giáo vĩ đại

Khác hẳn với Phê-rô, Phao-lô, một con người trí thức Do Thái thuộc chi tộc Ben-gia-min, công dân Rô-ma và là một Pha-ri-siêu nhiệt thành. Trước khi trở thành Tông Đồ, ông là kẻ bách hại Hội Thánh Chúa (x. Cv 8,3). Nhưng chính ông đã được biến đổi tận căn khi được Chúa Ki-tô phục sinh hiện ra với ông trên đường đi Đa-mát: “Sau-lê, Sau-lê, tại sao ngươi bắt bớ Ta?” (Cv 9,4)

Trước khi gặp Chúa Giê-su Phục Sinh, vì lòng nhiệt thành với Đạo Do Thái, ông đã bắt bớ những người theo Chúa Giê-su (x.Cv 8,3-9,2), cố tình tiêu diệt Hội Thánh ngay từ lúc phôi thai, làm cho Kha-na-ni-a khiếp sợ (x.Cv 9,13-14). Được Chúa Giê-su Phục Sinh biến đổi, ông gắn bó với Người bằng tình yêu không thể chia lìa, ông nói: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô ?” (Rm 8,35).  Đức Ki-tô đã trở nên “người yêu” và “người tình” của Phao-lô. Đức Ki-tô không ngừng ám ảnh ông, đến độ Phao-lô phải thốt lên: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Ga 2, 20). Phao-lô, vị thánh mệnh danh là bị tình yêu Đức Ki-tô thúc bách (x. 2 Cr 5,15). Chính ngài đã chịu nhiều đau khổ như bị gông cùm, tù tội, đánh đòn, đắm tàu… vì Danh Đức Giê-su Ki-tô. Và cuối cùng, ngài đã hiến dâng mạng sống như một của lễ toàn thiêu, chịu chém đầu tại Rô-ma dưới thời hoàng đế Nê-ron.Thánh Gio-an Kim Khẩu nhận xét: “Nếu Phê-rô là tảng đá, thì Phao-lô là đền đài được xây dựng trên đó. Cả hai nâng đỡ Hội Thánh bằng lời rao giảng và máu đào của mình”.

Tông Đồ của tình yêu và lòng mến

Tình Yêu của Thiên Chúa nhập thể, Tình Yêu này khi mặc lấy xác phàm, biểu lộ quyền năng và sức mạnh vô biên của Thiên Chúa trong sự yếu đuối, mỏng giòn của con người. Chính vì sự yếu đuối nghèo hèn của Phê-rô mà Chúa Giê-su trao Giáo hội của mình cho ông. Chính sự nhiệt thành đầy kiều hãnh của Phao-lô, mà Chúa đặt ông làm Tông đồ dân ngoại, để cùng với Phê-rô thể hiện sự tràn đầy của Chúa Giê-su Tình Yêu. Phê-rô dạy chúng ta trung thành và can đảm làm chứng cho đức tin dù yếu đuối. Thánh Phao-lô dạy chúng ta sự hoán cải không ngừng và lòng hăng say rao giảng Tin Mừng trong mọi hoàn cảnh.

Thánh Phê-rô và thánh Phao-lô nhắc nhở chúng ta rằng: Giáo hội không được xây trên sự hoàn hảo của con người, nhưng trên ân sủng và lòng trung tín của Thiên Chúa. Như lời Thánh Phao-lô: “Ơn của Chúa đủ cho tôi, vì sức mạnh của Người được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2Cr 12,9). Cả hai đã đón nhận tình yêu của Chúa Giê-su và để cho mình được tình yêu Chúa biến đổi. Cả hai đã trở nên Tông Đồ vĩ đại của tình yêu và lòng mến.

Nếu hôm nay Chúa Giê-su hỏi mỗi người chúng ta cùng một câu hỏi như Chúa hỏi Phê-rô: “Con có yêu mến Thầy không?” Chúng ta trả lời Chúa ra làm sao? Chúng ta yêu mến Chúa thế nào? Phê-rô chỉ cách cho chúng ta: tin tưởng vào Chúa, Ðấng “biết mọi sự” về chúng ta, Ðấng tin nơi chúng ta không phải vì chúng ta có khả năng trung thành, nhưng vì lòng trung thành vững chắc của Chúa. Thánh Phao-lô khuyên chúng ta hãy yêu mến Chúa và Giáo hội hết lòng và làm tất cả vì Chúa: “Dù anh em ăn, uống, hoặc làm bất cứ việc gì, hãy làm tất cả vì vinh danh Thiên Chúa” (1 Cr 10,31 ).

Kính lạy hai Thánh Tông Đồ Phê-rô và Phao-lô, Đá Tảng của Hội Thánh, nhà truyền giáo vĩ đãi, chứng nhân của tình yêu và lòng mến, xin cầu cùng Chúa cho chúng con biết yêu mến Chúa trên hết mọi sự và trong mọi người. Amen.

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

Suy niệm:

Trong ngày lễ kính thánh Phêrô và thánh Phaolô,
chúng ta được mời gọi chiêm ngắm hai khuôn mặt,
rất khác nhau mà cũng rất giống nhau.
Phêrô, một người đánh cá ít học, đã lập gia đình.
Ông theo Thầy Giêsu ngay từ buổi đầu sứ vụ.
Còn Phaolô là người có nhiều điều để tự hào,
về gia thế, về học thức, về đời sống đạo hạnh.
Ông chưa hề gặp mặt Ðức Giêsu khi Ngài còn sống.

Nhưng hai ông có nhiều nét tương đồng.
Cả hai đều được Ðức Giêsu gọi.
Phêrô được gọi khi ông đang thả lưới bắt cá nuôi vợ con.
Phaolô được gọi khi ông hung hăng tiến vào Ðamát.
Cả hai đã từ bỏ tất cả để theo Ngài.
Tất cả của Phêrô là gia đình và nghề nghiệp.
Tất cả của Phaolô là những gì ông cậy dựa vênh vang.
Bỏ tất cả là chấp nhận bấp bênh, tay trắng.

Cả hai đều đã từng có lần vấp ngã.
Vấp ngã bất ngờ sau khi theo Thầy như Phêrô,
trong một phút giây quá tự tin vào sức mình.
Ngã ngựa bất ngờ và trở nên mù lòa như Phaolô,
trong lúc tưởng mình sáng mắt và đi đúng hướng.
Vấp ngã nào cũng đau và in một dấu không phai.
Vấp ngã bẻ lái đưa con người đi vào hướng mới.

Phêrô và Phaolô đều yêu Ðức Giêsu cách nồng nhiệt,
vì họ cảm nhận sâu xa mình được Ngài yêu.
“Này anh Simon, anh có mến Thầy không?
Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” (Ga 21,16)
Cả Phaolô cũng yêu Ðấng ông chưa hề chung sống,
vì Ngài là “Con Thiên Chúa,
Ðấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi.” (Gl 2, 20)
Phaolô đã không ngần ngại khẳng định:
Không gì có thể tách được chúng ta
ra khỏi Tình Yêu của Ðức Kitô (x. Rm 8, 35.39)

Tình yêu Ðức Kitô là linh hồn của đời truyền giáo,
vì nói cho cùng truyền giáo chính là
giúp người khác nhận ra và yêu mến
Ðấng đã yêu tôi và yêu cả nhân loại.
Cả hai vị tông đồ đều hăng say rao giảng,
bất chấp muôn vàn nguy hiểm khổ đau.
Phêrô đã từng chịu đòn vọt ngục tù (x. Cv 5,40)
Còn nỗi đau của Phaolô thì không sao kể xiết (x. 2C 11, 23-28).
“Tôi mang trên mình tôi những thương tích của Ðức Giêsu” (Gl 6, 1-7)

Cả hai vị đã chết như Thầy.
Phêrô bị dẫn đến nơi ông chẳng muốn (x. Ga 21, 18).
Phaolô đã chiến đấu anh dũng cho đến cùng,
và đã đổ máu ra làm lễ tế (x. 2Tm 4, 6).
Hội Thánh hôm nay vẫn cần những Phêrô và Phaolô mới,
dám bỏ, dám theo và dám yêu
dám sống và dám chết cho Ðức Kitô và Tin Mừng.
Hội Thánh vẫn cần những chiếc cột và những tảng đá.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,
chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,
một người đánh cá ít học và đã lập gia đình,
để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.

Chúa xây dựng Giáo Hội
trên một tảng đá mong manh,
để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.

Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con
theo Chúa, sống cho Chúa,
đặt Chúa lên trên mọi sự:
gia đình, sự nghiệp, người yêu.

Chúng con chẳng thể nào từ chối
viện cớ mình kém đức kém tài.

Chúa đưa chúng con đi xa hơn,
đến những nơi bất ngờ,
vì Chúa cần chúng con ở đó.

Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon,
bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,
hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Thánh Phêrô và Phaolô được kính trọng thể trong một ngày lễ 29/6, chắc chắn vì hai vị thánh này là trụ cột của Hội thánh nhưng còn vì Giáo hội nhận thấy hai ngài có nhiều điểm giống nhau tất nhiên cũng có những điều khác nhau nhưng để bổ túc cho nhau.

          Điểm chung có thể kể ra ngay: đó là Ơn gọi, đức tin vào Chúa Kitô, sứ mạng rao giảng Tin mừng và cả hai đều chết vì đạo Chúa.

          Ơn gọi giống nhau khi cả hai đều được Chúa kêu gọi làm tông đồ: thánh Phêrô không những là tông đồ mà còn được Chúa đặt làm tông đồ trưởng, là thủ lãnh các tông đồ, còn thánh Phaolô tuy ơn gọi đến muộn màng hơn nên ngài tự nhận mình là đứa con sinh non và là tông đồ rốt hết nhưng Chúa biến ông trở thành vị tông đồ dân ngoại với nhiệt tâm rao giảng, với những chuyến đi truyền giáo đầy gian lao vất vả đã đem lại thành quả rất lớn lao cho Giáo hội.

          Hai thánh giống nhau qua cái chết tử đạo làm chứng cho Chúa tại Roma: thánh Phêrô chịu đóng đinh giống Chúa Giêsu, nhưng ngài khiêm tốn xin cho mình được đóng đinh ngược; còn thánh Phaolô chịu chém đầu, nên nhiều bức hoạ thường vẽ ngài với thanh gươm để chỉ phúc tử đạo của ngài.

Cả hai đều được đổi tên. Trước khi theo Chúa, Phêrô có tên là Simon nhưng Chúa Giêsu chủ động đổi tên cho ông là Phêrô, là Đá để  chỉ ông sẽ là tảng đá vững chắc Chúa dùng xây nên Hội thánh. Còn Phaolô tên cũ là Saolô, thời gian ông đi bắt đạo, các kitô hữu rất quen với cái tên đình đám này nhưng từ khi trở lại, lần lần ông được mang tên khác và chúng ta thấy sách Tông đồ Công vụ chương 13, ông được gọi tên là Phaolô từ đó  cái tên Saolô biến mất cùng với quá khứ bắt đạo của ông.

Cả hai ông đều có một quá khứ không mấy tốt đẹp: Phêrô đã chối Chúa không phải một lần mà tới 3 lần, còn Phaolô rất ghét đạo Chúa và hăng say đi bắt bớ các kitô hữu, Chúa Giêsu cho ông biết bắt bớ các người tin theo Chúa là bắt bớ chính Chúa và việc làm này như là dơ chân đạp mũi nhọn.

Nhưng cả hai được ơn trở lại sau lỗi lầm đó: ông Phêrô sau cái nhìn của Chúa Giêsu trong đêm Chúa bị nộp tại dinh Caipha đã thức tỉnh ông, nên ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết như một đứa con nít! Và ông đã can đảm xưng Chúa ra trong quãng đời còn lại. Còn Phaolô sau cú ngã ngựa tại cổng thành Damas đã được ơn Chúa biến đổi từ kẻ bách hại đạo trở thành vị tông đồ, thành lợi khí Chúa dùng để rao giảng Tin Mừng.

Khi đi rao giảng Tin Mừng, cả hai vị đã được Chúa cho làm nhiều phép lạ để cứu giúp người bệnh tật khốn khổ và củng cố sức mạnh của Tin mừng. Phêrô cùng với Gioan chữa lành một người què từ lúc lọt lòng mẹ vẫn ngồi ăn xin ở Cửa Đẹp Đền Thờ (x. Cv 3, 7 – 9 ); Phêrô làm cho người chết sống lại (x. Cv 9, 40 – 42); Phêrô chữa nhiều người đau ốm bệnh hoạn mà dân chúng khiêng họ ra tận đường phố để khi ông đi qua, ít ra cái bóng của ông phủ lên một bệnh nhân nào đó, và tất cả đã được chữa lành (x. Cv 5, 15 – 16)…

Phaolô đã chữa lành một người bẩm sinh bị bại chân tại Lítra (x. Cv 14, 8 – 10). Phaolô cũng làm cho một người đã chết sống lại (x. Cv 20, 9 – 12). Sách Công Vụ Tông Đồ cho biết Phêrô bị bắt giam trong ngục, đã được Chúa sai thiên sứ đến cứu thoát khỏi tay vua Hêrôđê (x. Cv 12, 1–11).

Cả hai có những lời tuyên xưng tốt đẹp về Chúa Giêsu và những lời này đã trở nên ngọn đèn sáng, thành tiêu chuẩn cho đức tin của các người tin Chúa. Thánh Phêrô đáp lại câu hỏi của Chúa Giêsu khi nhiều môn đệ không còn theo Chúa: “Cả anh em nữa, anh em  cũng muốn bỏ đi sao?” Thay mặt các tông đồ, ông đáp: “ Thưa Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời (Ga 6, 67-68)”.  Thánh Phêrô đã thành thực trả lời khi Chúa Giêsu hỏi ông ba lần về lòng yêu mến: “Thầy biết mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy (Ga 21,17)”. Còn thánh Phaolô đã nói lên: “Tôi coi mọi sự như thua thiệt trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô, Chúa tôi ( Pl 3, 8)” và ngài quả quyết: “Không gì có thể tách biệt tôi ra khỏi tình yêu Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta (Rm 8,39)”.  Trung tín với sứ mạng rao giảng Tin Mừng, ngài nói: “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng (1Cr 9,7)”

Tuy nhiên chúng ta cũng nhận biết rằng hai vị này có những điều khác nhau về tính tình, về học thức về cách thức truyền giáo nhưng chỉ là khác nhau trong điều phụ và vẫn hiệp nhất với nhau trong điều chính và chính sự khác biệt nay đã bổ túc cho nhau để xây dựng Hội thánh Chúa. Thánh Phêrô là đối tượng cho lời Chúa: “Con là Đá, trên Đá này Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy và Cửa địa ngục sẽ không thắng được (Mt 16,18)” Còn thánh Phaolô đúng thực đã trở thành lợi khí Chúa dùng để rao giảng Tin Mừng và đã lập được nhiều giáo đoàn

Mừng lễ hai vị thánh trụ cột của Hội thánh, chúng ta luôn ý thức rằng đức tin của chúng ta về Chúa Giêsu được xây dựng trên nền tảng tông đồ và chúng ta chỉ xứng đáng là hậu duệ của các ngài khi chúng ta góp phần xây dựng Hội thánh biết sống và nói lên lời tâm huyết của thánh Phaolô: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Phúc âm (1Cr 9,7)”. Amen

Lm GB Phạm Hồng Thái

Thánh Phêrô, vì đức tin non nớt, đã trở thành tự mãn. Khi mới tin Chúa, Ngài nghĩ rằng có thể làm được tất cả : đi trên mặt nước, trung thành hơn những người khác. Nhưng không ngờ Ngài đã bị chìm xuống, đã phản bội. Nhờ ơn Chúa thương yêu dìu dắt, dậy dỗ, đức tin của thánh nhân mới vững mạnh và trở thành người nâng đỡ đức tin của anh em.

Chúa đã thương ban cho các Ngài đức tin chân chính. Chúa đã huấn luyện cho đức tin của các Ngài nên trưởng thành. Đó là ơn của Chúa. Đó là sáng kiến của Chúa. Nếu không có ơn Chúa, các Ngài sẽ mãi mãi xa lạc. Trước mộ các ngài, tôi tha thiết cầu xin ơn đức tin. Tôi sợ đức tin của mình non nớt dễ trở thành tự mãn. Tôi sợ đức tin của mình sai lạc dễ trở thành cuồng tín.

Cảm nghiệm thứ hai là về ơn sám hối. Hai vị Tông đồ Cả đã có thời lầm lạc. Không chỉ phạm những sai lầm nhỏ mọn nhưng là những sai lầm nghiêm trọng.

Thánh Phaolô đã là kẻ thù của Chúa, đi tìm bắt giết những người theo Chúa. Thánh Phêrô là môn đệ của Chúa, nhưng đã phản bội, công khai chối Thày.

Nhưng các Ngài đã được ơn ăn năn sám hối. Một cú ngã ngựa đã làm thay đổi cuộc đời thánh Phaolô. Một ánh mắt của Thày Chí Thánh đã hoán cải thánh Phêrô.

Thật lạ lùng sự hoán cải của tâm hồn con người. Đang cứng cỏi bỗng trở nên mềm mại. Đang hung hăng bỗng trở nên hiền lành. Đang chống đối bỗng trở nên kính mến. Đang thù ghét bỗng trở nên tin tưởng.

Tâm hồn các Ngài biến chuyển nhanh chóng không nhờ sức thuyết phục của lí trí con người, nhưng nhờ ơn Chúa. Ơn Chúa tác động làm cho tâm hồn các Ngài nhạy bén nhận biết lỗi lầm và mau mắn trở về. Không có ơn Chúa tâm hồn tội lỗi không thể biết ăn năn.

Trong đền thờ có tượng thánh Phêrô bằng đồng đen nhánh. Nhưng bàn chân Ngài sáng bóng và mòn khuyết một nửa, vì mỗi khách hành hương đi qua đều chạm vào. Bàn chân ấy được yêu mến vì  lầm đường nhưng đã biết quay trở lại. Xếp hàng rồng rắn theo đoàn hành hương, tôi cũng đến chạm vào bàn chân Ngài, lòng thầm cầu xin ơn sám hối.

Cảm nghiệm thứ ba là về ơn khiêm nhường.

Khi viếng mộ hai thánh Tông đồ, phải cúi mình rất sâu, vì phần mộ của các Ngài nằm sâu dưới lòng đất. Bước xuống những bậc thang sâu hun hút, rồi nhìn lên các Vương Cung Thánh đường đồ sộ cao thăm thẳm, tôi có cảm tưởng các Ngài bị chôn vùi thật sâu, đang phải oằn lưng gánh lấy sức nặng của những phiến đá khổng lồ. Chính những ngôi mộ chìm sâu trong lòng đất đã trở thành nền móng cho những ngôi thánh đường đồ sộ vươn lên. Hội Thánh được xây dựng trên những nền tảng khiêm nhường. Đó là nền tảng vững chắc nhất.

Việc xây dựng như thế phản ảnh đúng đời sống khiêm nhường của các Ngài. Sau khi được ơn sám hối, thánh Phêrô rất mực khiêm nhường. Theo lời truyền, Ngài đã ăn năn khóc lóc tội lỗi suốt cả đời. Trong những hầm mộ ở ngoại ô Rôma, nơi các Kitô hữu đầu tiên ẩn trú có khắc nhiều hàng chữ “Xin Chúa thương xót con”. Truyền thống cho đó là lời của thánh Phêrô.

Còn thánh Phaolô thì không ngại xưng mình là “phân bón thế gian, cặn bã của mọi người”. Các ngài giống như hạt lúa chịu chôn vùi dưới lòng đất, chịu mục nát đi để sinh bông hạt phong phú. Các Ngài tự nguyện làm nền móng cho những ngôi nhà đẹp đẽ vươn lên. Các Ngài tự nguyện làm gốc rễ nằm sâu dưới lòng đất hút chất bổ dưỡng nuôi cho thân cây Hội Thánh được xanh lá, tươi hoa, trĩu quả.

Sau cùng là cảm nghiệm về tình yêu.

Tất cả những ơn đức tin, ơn sám hối, ơn khiêm nhường các Ngài nhận được đều do tình yêu thương của Chúa. Chính Chúa chủ động đi tìm, ban ơn và dìu dắt các Ngài. Chúa đã bao phủ các Ngài bằng một tình yêu thương không gì so sánh được. Và các Ngài cũng đã mở lòng ra đón nhận, cảm nghiệm và đáp đền ơn tình yêu bằng một đời sống quảng đại,  theo gương Thày Chí Thánh. Tình yêu kêu gọi tình yêu. Tình yêu đền đáp tỉnh yêu. Tình yêu đã biến những con người bất tín trở thành tin tưởng, lầm lạc biết quay trở về, tự mãn trở nên khiêm nhường, cứng cỏi trở nên chan chứa yêu thương.

Đứng bên mộ, tôi cảm thấy các Ngài thật gần gũi. Gần gũi trong thân phận làm người với tất cả những yếu đuối mong manh. Gần gũi trong ơn gọi Tông đồ tôi được hân hạnh cùng các Ngài chia sẻ. Gần gũi trong thao thức được Chúa thương hoán cải, hướng dẫn. Nhất là gần gũi vì được ấp ủ, được tan hoà vào cùng một tình yêu  của Thiên chúa.

Được gần gũi các Ngài, tôi cảm thấy mình được đưa đi rất xa trong hành trình nội tâm. Hành trình ấy dài hơn cả 10 nghìn cây số đường bay tôi đã trải.

III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU

1/  Có người nói : Đừng kể những nhân đức cao vời, nhưng hãy nói cho tôi biêt những yếu đuối của các thánh, như thế tôi dễ noi gương các ngài hơn. Bạn thấy thánh Phê rô và Phaolô có gần gũi với bạn trong những yếu đuối không?

2/  Qua cuộc đời các ngài, bạn cảm nghiệm gì về tình thương của Chúa?

3/  “Quên hẳn quãng đường đã qua, để lao mình về phía trước”. Đó là quyết tâm của thánh Phaolô sau khi được ơn trở lại. Bạn có quyết tâm như thế không?

ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt